Ngọc Tú:
Xin lỗi phái đoàn Con Ong Việt
hơi tò mò: nhà chị hình như mới sửa chữa? Ông nào giúp
chị sửa chữa nhà thế?
Nguyễn Tà Cúc:
Các bạn Con Ong Việt may mắn đến
thăm ngay sau khi ông…con rể tôi đã có cái không may mắn
là cùng cô con gái tôi xuống đóng lại những cái đinh long,
thay lại những bức ..dư đồ rách ở cửa sổ.
Minh Lý:
Chúng tôi xin phép đi thẳng vào
vấn đề: Chị không thể nào không biết tới những
"lời ong tiếng ve" về những hoạt động trong giới nhà văn
của chị. Chị nghĩ sao?
-Các cô ong chắc là mải giăng gió
thăm hoa ở những nới xa xôi nên bây giờ mới được nghe
về những lời ong tiếng ve liên quan đến đời riêng
của tôi. Những "tiếng ve" này có từ lâu, từ cách
đây năm năm khi tôi viết một số bài về tình trạng nội
bộ của Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Dĩ nhiên một người
(đàn bà) không hề viết ở Việt Nam trước đây, lại bỗng
nhiên viết, lại bỗng nhiên cáng đáng những việc mà đáng
ra một số nhà văn Miền Nam phải cáng đáng thì không tránh
khỏi những tiêáng ve mà các cô ong chúa đã có lần
nhắc tới. Vì mới xem ra thì trường hợp tôi có vẻ rơi
ngay vào cái công thức rất phổ thông ở đây là vì tình
trạng in ấn dễ dàng côäng thêm sự dễ tính của một vài
nhà văn đi trước (chuyên viết tựa bạt hay xướng họa thù
tạc) khiến nẩy sinh hiện tượng viêát truyện nhăng cuội
rồi cho xuất bản ,hoặc làm dăm bẩy bài thơ lẩn thẩn để
rình rình có dịp là cướp sân khấu, "trình diễn" những
câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An hoặc làm…thiêáp
cho một nhà thơ vĩ đại nào đó rồi xập xình ‘em ngâm,
anh làm thơ’ khiến cho sinh linh càng đồ thán, trăm họ càng
lầm than. Ngay cả hàng xóm các bạn cũng có một chú ve sầu
cả tiếng lắm, ra rả ngày đêm, nhất là khi vào hè đây,
ra cái điều mách cáo với độc giả về thành tích bất hảo
"ta cũng nòi tình, thương…nhiều người đồng điệu
" của tôi. Nhưng giá trị một nhà văn ở ngay trên bài viêát
của họ và tôi không tin rằng độc giả, cuối cùng, lại
quan tâm đến những việc không dính dáng gì đến văn chương,
lại căn cứ trên những "tiếng ve" để xét đoán tác phẩm
của một nhà văn, trừ khi phản ảnh một cách trực tiếp
vào văn chương người ấy.
PTML:
Những lời ong tiếng ve
này không chỉ về sự viết lách của chị mà còn gồm cả
những đồn đãi về cuộc hôn phối đổ vỡ của chị và
sự quan hệ giữa chị và một vài nhà văn tên tuổi khác.
Chị có thể cho độc giả Con Ong Việt biết sơ qua về cuộc
hôn nhân -đã-cũ này và tại sao lại có những đồn đãi
đầy ác ý đó?
Nguyễn Tà Cúc:
Những " đồn đãi đầy ác ý" này
giản dị chỉ là một thứ võ rất sơ đẳng mà bất cứ
một nguòi nào làm việc chung đêàu có thể hiểu hay đã có
kinh nghiệm: khi người ta không thể tấn công cách nào khác
thì ngưới ta tấn công vào đời riêng. Dù rõ ràng rằng việc
tôi có "quan hệ", có tình ý vói ai, có mê đắm ai… mà tình
cờ người ấy là một nhà văn hay nhà binh rõ ràng không quan
trọng. Lại càng không dính dáng gì đến chữ nghĩa của tôi.
Thứ võ hạ cấp này tuy sơ đẳng mà đã làm quỵ biết bao
nhiêu cao thủ võ lâm, giản dị vì không ai có thể chịu nổi
khi đời riêng mình bị đem lên báo xuyên tạc, bêu riếu không
phải trong một số báo mà nhiều số báo, không phải một
ngày mà nhiều ngày. Ở trường hợp tôi, sự tấn công này
kéo dài đã năm năm nay và mới đây, không riêng gì tôi mà
cả con tôi, những đứa trẻ đầu xanh vô tội, rồi bạn
hữu tôi, rồi cả người hôn phối cũ của bạn hữu tôi…cũng
được người ta cho lên báo. Cách đây mấy năm, người con
gái thứ hai của tôi, lúc ấy mới có 14 tuổi , phải viết
một bức thư ngỏ tới chủ nhiệm tờ Saigòn Nhỏ và tờ
Làng Văn, thống mạ họ về những việc làm đê hạ này (1).
Thư ấy đã được phổ biến tới giới truyền thông báo
chí và giới nhà văn Việt nam. Riêng về người bố của các
con tôi, (người đã làm hết sức để phổ biến những tin
tức bịa đặt về tôi, về bạn tôi, về gia đình tôi để
tiêáp sức với những tờ báo và nhà văn thổ tả nói
trên), thì xin Con Ong Việt giúp tôi giữ được lời nguyền
là nếu không nói đẹp được về ông ta thì tôi sẽ không
nói tới.
PTML:
Chị đã có kinh nghiệm về sư
đổ vỡ, mà lại là một sự đổ vỡ hết sức …công khai
và đầy bi tính, xin chị cho một định nghĩa về hai chữ
Hạnh Phúc?
Nguyễn Tà Cúc:
Tôi có một loạt bài lấy tên là
"Nữ Trí và Dân Trí". Ở một trong những bài này, có phần
nói đến hạnh phúc, theo ý tôi. Sở dĩ người đàn
ông làm được nhiều việc lớn, ngoài gia đình, vì họ được
huấn luyện và nuôi dưỡng trong tinh thần khác người đàn
bà. Cho đến nay, với đàn bà, "hạnh phúc" hầu như
gói trọn trong hai chữ "gia đình" nói chung và trong sự luyến
ái với một người đàn ông nói riêng. Cái quan niệm ấy,
cái tư tưởng ấy khiến người đàn bà lệ thuộc vào "hạnh
phúc" ban phát từ người khác. Nếu xuôi chèo mát mái thì
không nói làm gì, mà lại là một truyền thống tốt đep vì
cả hai người phụng sự cho cùng một lý tưởng như chúng
ta đã thấy. Nhưng nếu giới hạn người đàn bà vào chỉ
vòng khung ấy –vòng khung hỗ trợ của một tài tử phụ
mà không bao giờ là tài tử chính- thì lỡ khi sẩy đàn tan
nghé, lỡ khi tình duyên trăéc trở, người đàn bà sẽ không
thể gượng dậy nổi mà tiếp tục sống cho lý tưởng hay
cái nghề mình đã chọn. Sự nô lệ vào cái hạnh phúc
tùy thuộc hoàn toàn vaò trái tim người khác khiến nguòi đàn
bà càng luẩn quẩn trong những sự tầm thường, không thể
có những công trình lớn. Ðó là lý do tại sao, trước 1975,
văn học miền Nam đã có một nhà văn nữ nổi tiếng viết
nguyên một tác phẩm dầy cộm chỉ để "tố khổ" ông chồng.
Mặt khác, không có lý tưởng riêng, người đàn bà càng dễ
phiêu lưu vào những cuôäc tình duyên tạm bợ, nhầm lẫn
những "hạnh phúc" đích thực và đẹp đẽ vói những cảm
xúc chỉ có thể thỏa mãn nhất thời.
Bởi thế, cái thuyết "trời xanh
quen thói má hồng đănh ghen" chỉ đúng nếu người đàn
bà chỉ có "má hồng". Ðó cũng là một cách giải thích hết
sức lười biếng cho những người đàn bà không may mắn mà
lại trông cậy quá nhiều vào sắc đẹp. Hạnh phúc
của ta phải do chính ta xây dựng. Nếu người đàn bà có
bản lĩnh thì dù cuộc đời họ có ra thế nào, họ cũng có
"hạnh phúc", một thứ hạnh phúc từ lý tưởng, từ những
hoạt động họ đã chọn mà không ỷ lại vào người đàn
ông. Sự không ỷ lại này còn có cái tốt là sẽ không có
sự đau khổ quá đáng khiến tê liệt mọi hoạt động khác
khi hôn nhân hay tình duyên tan vỡ. Ở vài trường hợp, sự
đổ vỡ ấy lại còn là một sự ân sủng, một sự giải
thoát để người đàn bà có thể dứt khoát mà theo đuổi
lý tưởng riêng. Vì cái đau đớn nhất của một người đàn
bà có tâm hồn, có lý tưởng vẫn là sự nhận thức rằng
mình phải trói buộc cả đời vào một người hôn phối thuộc
loại "giá áo túi cơm", trống rỗng, không hề có ý niệm
gì về sự hy sinh cho người chung quanh. Dù muốn dù không,
chúng ta phải công nhận rằng, cho tới nay xã hội và họ
hàng gia đình vâãn dành cho người đàn ông sự thông cảm,
giúp đỡ và thậm chí kính phục khi họ quyết định tiếp
tục chí hướng của họ. Nhưng người ta sẽ rất khắt khe
với người đàn bà nếu họ ở cùng một trường hợp. Vẫn
có câu "thê tróc, tử phọc" chứ đời nào lại có "phu tróc,
tử phọc" bao giờ! Cho nên, muốn thay đổi cách suy nghĩ ấy
phải bắt đầu từ chúng ta, những cô ong chúa. Tôi rất may
mắn- phải nói là được ân sủng- có những người con hết
sức tán thành những công việc tôi làm, có một người em
trai lúc nào cũng có mặt bên cạnh để giúp trông nom các
con tôi và có người bạn cùng tâm nguyện. Ðó là một hạnh
phúc hoàn hảo nhất, theo định nghĩa của tôi. Không có
những người này, chắc chăén tôi sẽ …khốn đốn hơn nhiều:
các cô ong chúa cứ tưởng tượng răèng trong tình cảnh tôi,
có người chồng hay người tình tầm thường nào chịu nổi
những lời "ve sầu kêu ra rả" bịa đặt về "chân" tôi đã
…"lấm" như thế nào và ở đâu!?
NTNT:
Xin chị cho biết về mẫu người
đàn ông, mẫu người chồng ở hải ngoại? Chị có ý định
đi thêm bước nữa không?
Nguyễn Tà Cúc:
Các bạn hỏi tôi mâ'y câu này không
sợ độc giả ngờ rằng các bạn cho tôi một cơ hô.i để…tuyển
phu sao?!
6/ Nhà văn hải ngoại có góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của dân tô.c không?
-Ở đây, tôi sẽ chỉ nói đến
các nhà văn hải ngoại tỵ nạn, nghĩa là lưu vong, nhất là
các nhà văn Miền Nam hay các nhà văn chọn để thuộc vào
dòng văn học đó. Trong lịch sử ta, chưa bao giờ có việc
người dân phải bỏ nước ra đi tâäp thể như xẩy ra sau
khi cộng sản nắm quyền tại Việt nam. Dĩ nhiên, nhà văn
ra đi cũng chia xẻ cái trách nhiệm chung ấy. Nhưng chia sẻ
trách nhiệm ááy với đám lê dân ra sao? Bằng tâm và lực
của mình. Có Tâm thì mới viết ra được sự thực. Có Lực
thì mới chuyên chở được sự thực ấy bằng chữ nghĩa
mạnh mẽ để thuyết phục được người đọc.
PTML:
Còn cảm tưởng khái quát của
chị về báo chí hải ngoại?
Nguyễn Tà Cúc:
Tôi sẽ không thể chỉ nói trong
vài dòng nhận xét về báo chí hải ngoại mà không đưa ra
đủ chứng cớ, tài liệu. Vậy xin chỉ nói về hai cảm tưởng
chính mà tôi tin rằng độc giả cũng chia sẻ với tôi. Thứ
nhất, nhờ nhu cầu quảng cáo đã phát sinh ra tệ nạn là
"báo chửi". "Báo chửi" là những tờ báo chuyên đăng những
tin tức không chính xác, có ác ý và không cho người liên
hệ cải chính. Loại báo này quy tụ những ông "phiếm gia
chi bảo", nhũng người viết không ai chịu đăng và những
người cần đất dụng võ để trả thù riêng. Nhờ không
cần vốn, lại thêm thái độ hung hãn, hạ cấp của người
chủ báo, thân chủ quảng cáo ít dám rút đi, các báo đứng
đắn khác sợ "chẳng phải đâàu cũng phải tai" nên nạn
nhân thường phải im lặng. Nhận xét thứ hai là ngươiø đọc
thì nhiêàu mà người mua chẳng được bao nhiêu, trừ một
số rất ít thường xuyên mua sách báo. Tôi nói ra điều này
có thể mích lòng rất nhiều người, kể cả bạn hữu tôi,
là tôi rất ngạc nhiên vì chúng ta không có thói quen mua báo,
nhất là không mua báo dài hạn. Nếu thiếu thốn thì không
nói làm gì: có thực mói vực được đạo. Nhưng tôi thấy
người ta dễ dàng bỏ ra ba chục, năm chục để mua vé cho
một đêm "nhẩy đầm" hay cả trăm, cả ngàn để đi đánh
bạc, thậm chí mua một cái áo đắt tiền nhưng nhất định
không mua một tờ báo nào, dù là nhật báo! Ngay cả giới
gọi là "trí thức" cũng hiếm thấy mua nhiều hơn một tờ
báo, đừng nói đến báo ngoại quốc như "The New York Times"
hay "Time", "Newsweek", hay các tạp chí văn học định kỳ. Tôi
"khổ tâm" nhất khi có người mượn báo hay mượn sách của
tôi! Chúng ta hô hào về văn hóa, về văn chương…mà có người
một tờ báo, một cuốn sách không dám bỏ tiền ra mua! (Mới
đây, tôi còn biết có chuyện ăn cắp báo để bán cho các
sạp báo nữa! Thật là hết chỗ nói!).
NTNT:
Cảm tưởng của chị về nhóm
Con Ong Viêät nói chung và báo Con Ong Việt nói riêng?
Nguyễn Tà Cúc:
Chẳng lẽ tôi lại khen "phò mã
tốt áo" vì "phò mã" đã quay sang bảo chú ve sầu hàng xóm
là "này, rên rỉ vừa thôi. Oàn quá, để cho hàng xóm yên
lặng mà nghỉ ngơi chứ. Kêu mãi thế không sợ vỡ …tim
mà chết à? " Nhưng phải nói rằng "Kinh đô cũng có người
rồ". Tuy kinh đô báo chí có vài người rồ
chuyên đào bới chuyện cá nhân bằng một thứ chữ nghĩa
hết sức kinh hãi, nhưng các bạn không hổ là người lính
Miền Nam, là các cựu sinh viên sĩ quan xuất thân từ một
trường Võ Bị nổi tiếng ở Á Châu. Một ông nhà văn hay
nhà báo, nhà nhạc… mà bị một ông nhà…binh rôài mấy
cô ong chúa (Con Ong Việt) dậy cho về cách viết lách mà phải
im- như -thóc thì…ngoạn mục tới chừng nào!
PTML:
Tên của chị là một cái tên
khác thường. Số Con Ong Việt trước, Ðồ Nhọ đã phân tích
về cái tên ấy. Nay nếu được, chị cho biết thêm về quê
quán được chăng? Chị có nhắc đến người lính miền Nam
rất nhiều. Chị có bao giờ có dịp ra gần mặt trận chưa?
Là một nhà phê bình, xin chị cho biết nhận xét về nhà văn
(nữ) Dương Thu Hương và trận chiến Viêät Nam mới đây mà
Dương Thu Hương cũng là người tham dự trực tiếp phía bên
kia.
Nguyễn Tà Cúc:
Tôi sinh ra ở Nam Ðịnh (làng Bách
Cốc, huyện Vụ Bản) năm 1953, được khoảng sáu tháng thì
gia đình tôi chạy vào Nam khi đất nước bị căét đôi. Thầy
u tôi vẫn bị ám ảnh rất nặng nề về họa cộng sản.
Thầy tôi đoán trước rằng với những thủ đoạn và quyết
tâm của cộng sản, sớm muộn gì họ cũng chiêám được
miền Nam. Cái ám ảnh này với tôi là một ấn tượng lớn
khi tôi nhớ tới ông. Nhưng quả thực là một người sống
cả phần đời niên thiếu ở Sàigon, tôi không có khái niệm
gì về hiểm họa ấy cũng như càng không thể hình dung ra
đời sống của người dân sống trong vùng lửa đạn hay đời
sống của người lính Miền Nam.
Cho đến khi tôi tình cờ gặp một
người lính "chuyên nghiệp" (nghĩa là anh ấy xuất thân từ
trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam). Nhờ người này, tôi có
dịp tới Quảng Trị. Ở đây, lần đầu tiên tôi bắt gặp
cái đe dọa thâm hiểm của chiến tranh dẫn đến những cái
chết bất ngờ của những người "tóc còn xanh, môi còn đỏ".
Người này, vào những ngày hỗn loạn cuối tháng tư, 1975,
có nói sẽ không bao giờ "bỏ lính". Nay thì người ấy chắc
chắn đã tử trận, đâu đó ở Ðà Nẵng. Năm 1973, tôi có
dịp lên tới đỉnh đồi Bastogne. Muốn lên tới đỉnh chỉ
có cách leo lên những bậc thang đính chặt vào sườn đôài.
Quần áo, tóc tai, mặt mũi, cả lông mi lông mày của chúng
tôi đều được phủ bằng một lớp bụi đỏ kè. Tôi nhìn
thấy giao thông hào, tôi nhìn thấy những trạch cá kho…Người
sĩ quan có nhiệm vụ hướng dẫn chỉ cho chúng tôi về hướng
rừng xanh xa xa phía dưới, nơi ông nói đêm đêm Việt Cộng
vẫn nã súng lớn lên Bastogne. Cũng ở lần này, tôi không
quên đôi mắt nheo lại đâày vẻ mỉa mai, ngán ngẩm của
một ông sĩ quan khác khi tôi hỏi ông ta về vợ con, về cách
sinh sống của những người lính trấn đóng đồi Bastogne
(bao lâu thì được thay phiên, gia đình đi thăm bằng cách
nào, chẳng lẽ mỗi lần lại phải trèo lên bằng đó cái
bậc thang?!). Dĩ nhiên, không thân nhân nào được lên tới
đó cả! Trước mắt ông ta, tôi chỉ là một cô "tiểu thư
" tò mò một cách vô tích sự. Nhưng có lẽ cái kinh nghiệm
sâu đậm nhất về chiến tranh Việt Nam là lần tôi ở Rừng
Sát. Tôi có quen một anh bạn đóng đôàn ở đây. Anh ta đeo
lon Thiếu tá, có một người anh ruột bị giết trong vụ Mậu
Thân ở Huế. Lúc đó tôi đã có ý "quan sát" đời sống của
một người lính nên nói với anh ấy lý do và tỏ ý muốn
ở lại vài đêm. Chắc các bạn còn nhớ Rừng Sát, ngay cạnh
Sàigon nhưng nổi tiếng nguy hiểm? Tôi vẫn còn nhớ cái cảnh
ban đêm, nước lên bao phủ mênh mông, loang loáng chung quanh.
Lại có mưa tầm tã. Anh ấy có lệnh hành quân. Từ căn nhà
anh ấy ở mà tôi tạm trú, nhìn ra, tôi thâáy nhũng người
lính mũ sắt, choàng poncho, súng đạn lỉnh kỉnh, giầy bốt
đờ sô bước trên bùn nhão quánh. Căn nhà một thiêáu tá
tác chiến trong chỗ trú đóng này là một căn nhà nền đất,
mái lá. Và không có cả điện. Nghĩa là lính Miền Nam khổ
tới chứng nào: quan còn như thế , huống gì lính? Vì người
bạn tôi không hề có một căn nhà nào khác.
Gần sáng, anh ấy về, cho tôi xem
một gói đồ "Mấy ông lớn mà biết anh đưa cho cô xem
mấy thứ của quỷ này thì thác. Nhưng cô đã muốn biết
thì đây!" Anh bạn tôi sau 75, ngồi tù 10 năm, đi đường
bộ sang Cam Bôát, khi đọc những giòng này ở Virginia, bây
giờ chắc tha cho tôi cái tội khai ra vì làm gì còn có những
…ông lớn nữa! Gói đồ này là những món tùy thân
của mấy người lính bộ đội sinh Bắc tử Nam: một cuốn
sổ nhỏ chép thơ, nhật ký và ảnh của gia đình. Anh bạn
tôi trầm ngâm mãi: "Cô coi, ba thằng khốn gửi con người
ta vô đây rồi bây giờ chết thẳng cẳng, lấy ai báo cho
gia đình biết là chết đích xác ở đâu, cách nào,
chôn ở đâu, ngày nào giờ nào chắc chăéc mà cúng kiếng?
Mà nó không chết thì anh chết. Có phải lãng xẹt không? Anh
có muốn bắn nó chêát đâu? Anh có tự nhiên chạy ra ngoài
đó núp bờ núp bãi để ám sát tụi nó đâu? "
Sau 1975, toàn thể cựu sĩ quan của
quân đội Miền Nam vào tù. Nhà văn cũng vào tù. Nghĩa là
khẩu súng và ngòi bút đều vào tù. Một số may mắn hơn-
như tôi và tổ Con Ong Việt- chạy thoát. Chạy thoát để làm
gì? Chẳng lẽ lại để "ấm thân", để bảo vệ tý danh hão
(nhà văn, nhà tướng)? Câu trả lời (một phần) trong trường
hợp các bạn là "làm báo". Ở trường hợp tôi là viết.
Nhưng riêng ở trường hợp tôi,
khi tôi chọn viết mà viết phê bình, thì có căn cớ. Cái
căn cớ ấy là những ấn tượng tôi còn giữ lại ở Bastogne,
ở Quảng Trị, ở môät ngôi nhà lá ẩm thấp, đọc nhật
ký của mấy anh bộ đội sinh Bắc tử Nam. và tình cảnh của
văn chương Miền Nam , số phận của dân chúng Miền Nam sau
1975. Những người bạn tôi đã tử trận, những người bạn
khác và cả các cựu quân nhân của tờ báo này, đã đi tù,
đã bị giam trong thời sung sức, đẹp đẽ nhất của một
người đàn ông, đã gia đình xiêu tán, đã người thân thất
tung…chỉ vì để chống lại cộng sản, dù là tình nguyện
hay không.
Nhưng cái mà chúng ta gọi là "chính
nghĩa" ấy bây giờ nằm ở đâu? Nằm ở biển Ðông nơi đồng
bào chúng ta bỏ thân? Nằm ở Thái Lan nơi chị em chúng ta
bị bắt vào lầu xanh sau khi đã chứng kiến bố mẹ, anh chị,
người yêu bị giết thảm khốc? Chẳng lẽ lại nằm ở đảng
côäng sản Việt Nam, nằm ở những ông tướng Miền Bắc,
nằm ở những nhà văn như Dương Thu Hương? Không ai từ chối
rằng Dương Thu Hương can đảm. Nhưng những nhà văn Miêàn
Bắc có tiếng phản kháng như Dương Thu Hương- được thế
giới và mấy người cầm bút "ngây thơ" như bà Thụy Khuê
của đài RIF bên Pháp tung hô vạn tuế - cho tới nay vẫn chưa
có một lời chính thức nhắc đến tội ác của người cộng
sản đôái với người dân miêàn Nam và nhà văn Miền Nam.
Ba lần cộng sản Việt Nam đốt
sách của nhà văn Miền Nam, của thánh hiền…không hề thấy
các nhà văn Miền Bắc nói tới. Các nhà văn Miền Nam bị
bỏ tù hàng loạt, không thấy họ nói tới. Những người
lính Miền Nam bị đầy đọa hết sức dã man cho đến chết
trên những nơi rừng thiêng nước độc, không thấy họ nói
tới. Những phụ nữ Miền Nam tất tả ngược xuôi nuôi chồng
trong tù, nuôi con không được đi học vì "lý lịch ba đời",
không thấy họ nói tới. Họ chỉ "nói tới", chỉ "phản kháng
" khi chính họ (và đồng bào Miền Bắc) bị trù dập, bị
tước quyền tự do tư tưởng, bị kiêåm duyệt, và người
lính Miền Bắc bị "đãi ngộ" không xứng đáng sau khi chiến
tranh chấm dứt, sau khi nhà cầm quyền không còn lý do để
ngăn cấm, đe nẹt nũa. Trong khi một người lính miêàn Nam
như anh bạn tôi ra trận chỉ để tự bảo vệ mà còn có
lòng thương xót tới số phận của người đã định giết
mình và sự đau đớn của gia đình họ mà một nhà văn Miền
Bắc như Dương Thu Hương lại không quan tâm tới sự điêu
linh của cả một nửa dân tộc. Cho nên, hậu quả ghê sợ
nhâát của chủ nghĩa cộng sản là đào tạo ra một loạt
nhà văn có thể có tài nhưng hoàn toàn không có tính chất
nhân bản. Còn nếu nói về sự can đảm thì cũng không nên
quên răèng các nhà văn và người dân Miền Nam cũng có thừa
can đảm: năm ông tướng tự sát và bao nhiêu cái chết khác
trong tù của những người lính, người cầm bút bất khuất.
Vậy, nếu chúng ta không viết để
mọi việc sáng tỏ thì ai sẽ viết cho chúng ta? Chắc chắn
không phải là những người ngoại quốc mà đa số không có
chút kính trọng nào dành cho bất cứ một quân đội đã thất
trận, dù quân đội Miền Nam trên thực tế không thất trận
vì đã chứng minh qua nhiêàu trận đánh rằng họ thiện chiến
hơn quân đội Miền Băéc nhiều. Chắc chắn không phải là
những nhà văn từng bị cộng sản "bịt matêé" dẫn đi trong
gần 50 năm nay như Dương Thu Hương. Cho nên, viết là để
bầy tỏ sự thực của một giai đoạn lịch sử mà chúng
ta có may mắn là còn có được nhân chứng còn sống và tài
liệu để kiểm chứng. Ở trường hợp tôi, việc đó lúc
này cấp bách hơn là viết về những việc khác.
Ngọc Tú và Minh Lý:
Xin cám ơn chị.
|