Người phỏng vấn quen
với nhà văn Mặc Đỗ bắt đầu từ cuối năm 1999 qua nhà
thơ Viên Linh (và tạp chí Khởi Hành). Từ đó trở đi, vẫn
có thỉnh thoảng thư từ. Như cái tên, ông là một người
rất khiêm cung, dễ gây cảm tưởng ở những người mới
hay không quen là ông dè dặt một cách khác thường. Nên việc
phỏng vấn ông, nghĩa là buộc ông nói về chính ông, đi ngược
lại bản tính và cái tên do người Thày đặt cho, là một
việc rất khó xử cho ông. Nhưng ông đã trả lời một số
câu hỏi sau đây bằng thư, rải rác trong gần nửa năm vì
người phỏng vấn cố gắng thuyết phục, rằng trong tình
cảnh hiện nay, ông là một trong những nhân chứng quan trọng
của một thời kỳ lịch sử đau thương nhưng cũng là một
trong những thời văn chương tươi đẹp nhất của Miền Nam,
của Việt Nam. Là một trong những người đã và đang tiếp
tục đóng góp, ý kiến của ông hết sức quan trọng cho những
ai muốn khảo cứu về nó.
NGUYỄN TÀ CÚC:
Thưa anh, cảm ơn anh đã đồng ý cho Tà Cúc hỏi về một
số vấn đề liên quan đến Văn Học Miền Nam và nhóm Quan
Điểm. Có một vài câu hỏi được đặt ra không phải vì
khinh thường anh đến nỗi bắt buộc anh phải chú ý đến
những tác giả không lương thiện hay điều họ viết quá
sai–nhất là khi hai người bạn thân trong nhóm Quan Điểm
của anh đều đã qua đời- mà vì chúng ta quan tâm đến văn
sử VN, đến những trường hợp mà kẻ khác có thể lợi
dụng qua những cuốn sách ấy, những bài viết ấy để biến
sự phỉ báng thành tài liệu khả tín cho người phê bình
của những thế hệ sau phê phán chúng ta.
MẶC ĐỖ: Tà Cúc
hỏi, tôi chiều ý trả lời rõ ràng sau đây, điểm nào vượt
quá thẩm quyền hay có thể xúc phạm tới quyền của người
đã khuất tôi sẽ bỏ qua. Tôi rất yêu và trọng công việc
Tà Cúc đang theo đuổi, vì nó cần cho người sau muốn tìm
hiểu thời đại này. Những gì tôi viết ra với Tà Cúc đều
là sự thật 100 phần 100, sự thật tôi nắm chắc, hồ nghi
thì tôi sẽ không viết hay ghi rõ là dường như thế.
1. Anh là một trong
những dịch giả sớm nhất của VHMN (và trước đó một chút).
Ra ngoại quốc anh vẫn còn tiếp tục dịch. Theo anh, dịch
những tác phẩm Việt ngữ ra tiếng ngoại quốc có trở ngại
gì? So sánh với đời viết của anh, tại sao anh theo đuổi
việc dịch lâu dài đến thế?
Chủ đích của tôi là
viết. Dịch là một cách tập viết rất tốt. Phóng bút viết
dễ, vận dụng ngòi bút để cố lột được lời ý của
nguyên tác khó. Tập như vậy cả đời vẫn chưa xong, nhưng
có tập gân tay vừa dẻo vừa khỏe viết dễ, viết sáng sủa,
chính xác. Tôi ghi lại ít tình tiết thời tập viết, trong
đó dịch ngoại văn không phải là cốt cán. Nhìn vào mớ
sách đã in của tôi thật rõ rệt lượng sách dịch trổi
hơn hẳn lượng sách nguyên bản Việt ngữ, cân lượng như
vậy mà xác định ngược lại cũng khó lọt tai nhưng sự
thật nó đúng thế.
Tôi mê truyện
từ ngày còn nhỏ lắm, chưa biết đọc biết viết. Mẹ tôi
rất yêu truyện Tàu, cụ đọc từ nguyên bản chữ Hán vì
cụ rất khinh thứ chữ mang tên quốc ngữ không thèm học,
coi đó chỉ là một cách ghi âm chứ không đẹp và thâm thúy
như chữ Hán mỗi chữ là một biểu ý rất xúc tích. Các
con của cụ không thông chữ Hán để tự đọc được truyện
trong khi cụ chẳng là một diễn viên vừa thông dịch vừa
biểu diễn được tình tiết lý thú trong truyện. Trở ngại
đó được giải quyết khi có những bản Việt văn của
những ‘Tái Sinh Duyên’, ‘Tam Quốc Chí’, ‘Thủy Hử’,
v.v. Mỗi tối cả nhà xum họp trước giờ ngủ Mẹ chỉ định
một bà chị ngồi đọc truyện cho cả nhà nghe. Tôi bé con
phải vào giường sớm hơn nhưng đâu có ngủ được, mắt
mở dán lên đình màn, hai tai vểnh lên để thu lọt hết từng
chữ của đoạn truyện đang đọc. Tôi còn nhớ mãi một chi
tiết truyện in sâu trong đầu tôi cho tới bây giờ. Ông tướng
Tàu Hạ Hầu-Đôn hươi giáo dài, phi ngựa ra trận, bỗng bị
trúng một mũi tên địch cắm vô một bên mắt. Ông tướng
ghìm ngựa, đưa tay lên rút mũi tên , con ngươi bị rút theo,
ông tướng thản nhiên đưa con ngươi vô miệng như ta đưa
viên nem nướng, rút mũi tên quẳng ra xa và nuốt trọn con
ngươi rồi thúc ngựa, hô quân tiến. Nghe đọc tôi thích quá,
chỉ muốn chị đọc lại một lần nữa để nghe cho đã.
Từ buổi đó tôi bắt đầu xây mộng, nhất định lớn lên
sẽ viết truyện cũng ngon lành như thế.
Nguyên một
truyện khác ghi bước tiến thứ hai của tôi trên đường
nhất định viết. Đó là một cuốn sách nhỏ chỉ to hơn
bàn tay, bìa đỏ, ít trang, dường như do nhà xuất bản Vĩnh
Hưng Long ở phố Hàng Gai, Hà Nội, tôi không nhớ thật rõ,
tên tác giả cũng không nhớ, tựa truyện nhớ mãi: ‘Một
Cảnh Làm Dâu’. Nội dung truyện mô tả nông nỗi một cô
gái bơ vơ, bỡ ngỡ về nhà chồng bị đủ thứ soi mói, kiềm
chế, của tập đoàn các ‘bà cô bên chồng’, em chồng,
do bà mẹ chồng dẫn đầu, trong khi ông chồng chỉ biết làm
chồng, không biết dìu dắt, che chở. Truyện gợi xúc cảm
rất mạnh nơi người con trai mới biết đọc. Hồi đó còn
quá nhỏ tôi không biết truyện in ra có gây dư luận hay không.
Sau này, ở Sàigòn, một dịp nói chuyện với anh Nhất Linh
tôi có kể lại kỷ niệm đó và hỏi anh có đọc truyện
đó không, khi anh còn nhỏ ở Cẩm Giàng. Hai mắt anh sáng lên
cùng với trí nhớ bất đồ nhỏm dậy. Anh bảo, Có, có đọc,
nhiều người cùng thời cũng đọc, nhưng sau đó ai làm chồng
vẫn làm chồng, chẳng mấy ai nghĩ đến tình cảnh của vợ!
Được thể tôi hỏi thêm, Truyện xưa có ảnh hưởng chi đến
‘Đoạn Tuyệt’? Anh cho biết có nhớ đến truyện đó khi
sắp viết ‘Đoạn Tuyệt’ nhưng nội dung truyện của anh
bao quát hơn, nặng về đề tài xung đột Mới Cũ trên đó
bàng bạc mối tình lỡ dở của Loan.
Tiến vững
thêm trên quyết định, cùng với tuổi lớn tôi bắt đầu
tự vấn, muốn nhưng phải làm sao. Tôi là thứ con ngoan biết
noi theo nếp nhà, muốn chi cũng phải học đã. Đó là con đường
tốt cho tôi, nếu không chịu mở mang kiến thức sao có thể
viết được. Học đường đã giúp tôi rất nhiều, càng học
càng tập được. Viên nem nướng của ông tướng Hạ Hầu-Đôn
luôn luôn nhắc tôi phải quan sát kỹ và nhớ thật rõ mọi
thứ chung quanh. Mấy năm đi Hướng đạo cũng giúp tôi mài
sắc con mắt quan sát. Nhờ quan sát kỹ những lúc xem mẹ dạy
các chị học chữ Hán tôi võ vẽ được khá nhiều chữ,
chỉ ngắm Mẹ dạy viết chữ Hán tôi không được học mà
còn nhớ mãi cho đến nay bí quyết nhớ mặt chữ và viết
đúng cách: dùng ngón trỏ viết lên quãng không từng nét chữ
‘trên xuống dưới, nửa bên trái trước, nửa bên phải
sau’. Những việc trong nhà, dưới bếp, tôi cứ theo dõi và
nhớ, kết quả tôi vô tình biết làm nhiều thứ lắm. Một
sự việc khá vui vui: Hồi tôi ở Đàlạt một mình, một năm
Tết đến tôi thấy thèm bánh chưng Mẹ gói. Tôi thử nhớ
lại Mẹ gói bánh ra sao và cứ theo trí nhớ xuống Chợ mua
đủ thứ (may sao hồi đó Đàlạt khá đông bà con người
miền Bắc nên có bán đủ món tết): trước hết là lá dong
và lạt giang không có hai món này khó gói lắm, dĩ nhiên phải
có gạo nếp, đậu xanh mảnh (nguyên hột không đãi vỏ được).
thịt heo ba chỉ, tiêu, muối thì sẵn có ở nhà. Với bấy
nhiêu vật dụng tôi cứ theo trí nhớ tuần tự làm những
việc đã thấy Mẹ làm, chẳng hạn lá dong phải trần nước
nóng cho mềm rồi lóc bỏ sống lá. Khi gói bánh tôi cũng nhớ
cách xếp lá, đặt sợi lạt...Kết cuộc tôi gói được sáu
cái bánh chưng chẳng vuông vắn đủ tám góc như Mẹ nhưng
luộc xong đúng là bánh chưng Mẹ gói, ăn rất ngon.
Ngoài chú ý
quan sát và ghi nhớ để giúp chi tiết mỗi khi viết, việc
quan trọng hơn nữa là tập viết. Tôi đã bỏ ra hai chục
năm tập tành cho tới quá tuổi ‘bất hoặc’ mới thật
sự viết. Hồi ở trung học tôi có may mắn được một bà
thày vì biết tôi có xu hướng trở nên người viết nhà nghề
đã hết lòng dìu dắt tôi viết...Pháp văn qua bao nhiêu khúc
mắc của văn phạm và từ ngữ. Bao nhiêu hấp thụ mới nghe
tưởng vô bổ nhưng sau này, cho đến bây giờ, khi tôi chuyển
qua viết Việt văn những gì đã học được giúp ích tôi
vô cùng. Ngôn ngữ nào cũng có văn phạm, lề lối viết riêng
chỉ khác ở mức độ chặt chẽ hay lỏng lẻo, phức tạp
hay đơn giản. Ngôn ngữ của chúng ta theo một khuôn phép khá
lỏng lẻo, rất khó tranh cãi, viết thế nào đúng thế nào
không đúng, miễn người đọc hiểu được là xong. Người
viết phải tự mình phô diễn, độc giả tự tiện phê phán.
Rất lâu trước khi thật sự viết tôi đã bị khựng lại
trước điểm khó này và phải loay hoay tìm một lối thoát.
Phải mở đầu
như vậy để có thể đề rõ sự khác biệt giữa Pháp văn
và Việt văn, một trở ngại khá lớn đối với tôi thời
chuyển tiếp. Đã quá quen với một thứ văn phạm khó tôi
rất ngạc nhiên khi xét kỹ thấy văn phạm Việt quá giản
dị, quá dễ, gần như tùy ý người dùng. Dễ dùng nhưng không
dễ cho người viết văn. Điểm này được chứng minh qua những
áng văn xuôi của tiền bối nó nhịp theo văn Tàu. Thời xưa
nếu không viết như thế trang sách nói, chứ không phải để
độc giả đọc và thưởng thức. Sau này do ảnh hưởng văn
học Tây phương văn Việt biến dạng rất mau, cung đốn cho
độc giả một nền văn chương thật Việt Nam. Nhưng khác
biệt gIữa Việt văn và ngoại văn vẫn còn.
Không có tư
cách chuyên ngữ học và không đủ giấy, tôi không thể trình
bày chi tiết ở đây về sự khác biệt. Căn cứ trên kinh
nghiệm riêng và của nhiều người khác, dịch Việt văn qua
ngoại ngữ rất khó, chỉ có thể dịch thoát (đứng đắn
hơn kiểu dịch mang tên rất đẹp là phóng tác) không thể
dịch thật sát. Nguyễn Văn Vĩnh dịch Kiều phải kèm bên
phần dịch thoát một phần dịch từng chữ một (mot à mot),
một dịch giả Pháp cũng phải làm thế. Bốn thập niên trước,
khi mỗi ngày trên nhật báo Mỹ đầy trang nhất hai chữ “Viet
Nam”, giới xuất bản Mỹ đua nhau vồ món hàng tin rằng bán
chạy nhưng bao nhiêu tính toán dịch sách Việt đều hỏng,
lý do khó dịch, ít dịch giả đủ khả năng (kể ra cũng còn
một lý do nữa, hàng có ăn khách không).
2. Anh nghĩ sao về
sự sáng tác của riêng anh?
Khởi đầu
nhất định chuyên về viết tôi đã có ý niệm rõ ràng về
lựa chọn đó: tôi viết cho tôi trước hết, và để nói
với độc giả nhiệt tình của người viết gửi trong chữ
nghĩa viết ra. Lớn lên giữa những biến cố cuối thập niên
20 và dài sau năm đầu thập niên 30 tôi chịu ảnh hưởng
nặng từ thời thế bên ngoài nên viết không để mua vui (hồi
nhỏ tôi cứ tưởng viết truyện là để mua vui) cũng không
chiều theo thị hiếu của độc giả. Tôi viết cho tôi vì
cảm thấy viết được xuống giấy như giải thoát được
điều gì đang dồn nén trên tâm tư. Điều dồn nén trong
tôi không hẳn cũng tương tợ đối với mọi độc giả; độc
giả nào không chia sẻ tất nhiên cảm nghĩ ngược lại, tôi
rất hiểu và không buồn/tức giận nếu gặp một phản ứng
đầy ác tâm, do đó tôi không hề tranh cãi. Cũng nên ghi ác
tâm hầu hết từ một đám người cùng nghề. Tôi cũng có
những dịp hởi lòng tình cờ gặp mặt, hay nhận được thư,
để nghe hay đọc những lời chê rất đáng yêu hoặc những
lời khen tôi không dám nhận.
3. Anh rất chú trọng
đến phụ nữ, từ trong sáng tác cho đến vài vấn đề lớn
liên quan đến họ. Cố ý hay vô tình?
Có hai ấn
phẩm khiến tôi chú trọng tới cái nửa già của nhân số
Việt Nam (nơi khác cũng thế) là phe nữ. Tôi mê truyện từ
thuở mới biết nghe đọc (chưa tự đọc được), mê vì truyện
bắt nghĩ ngợi xa hơn tình tiết truyện. Khi bắt đầu đọc
được quốc ngữ tôi bắt gặp một truỵên mỏng mô tả
cảnh làm dâu của một cô gái giữa những mẹ chồng và bà-cô-bên-chồng,
tựa truỵên 'Một cảnh làm dâu'. Ấn phẩm thứ hai là số
đầu tập san 'Phụ Nữ Tân Văn' với trang bìa in hình ba phụ
nữ, Nam bới tóc, Trung vấn tóc và Bắc vấn khăn, kèm hai
câu sáu tám, 'Phấn son tô điểm sơn hà/ Sao cho tỏ mặt đàn
bà nước Nam'. Hồi đó báo Nam (cởi mở hơn) không được
lưu hành ngoài ranh giới thuộc địa Cochinchine nhưng tư nhân
lén đưa ra Hànội được. Nội dung báo hưởng ứng phong trào
phụ nữ đang lên ở ba miền, nó gãi đúng sự chú trọng
của tôi. Địa vị và vai trò của người nữ trong gia đình
và ngoài xã hội đáng chú trọng lắm chứ; ai chẳng có mẹ,
chị, em gái, bạn/người yêu, vợ, con gái, để quan tâm và
yêu thương. Bao giờ tôi cũng tin rằng phái nữ chỉ có một
đường ra khỏi cũi của cụ Khổng là trở nên hữu ích không
riêng cho gia đình nhỏ, chồng con và tứ thân phụ mẫu, mà
hữu ích cho xã hội. Ra khỏi cũi Khổng bây giờ cũng có thể
gặp nguy cơ là cái cũi do bọn International Socialist (cựu Đệ-Tứ
còn sót lại sau những tàn sát của Stalin) liên minh với lũ
thày liberal nắm giữ các đại học trên quốc tế đang ra
sức engineering xã hội dưới danh nghĩa political correctness.
4. Nhà văn Võ Phiến
có viết về nhóm Quan Điểm (nghĩa là anh và các bạn anh)
như sau:”Không làm cách mạng được thì làm dáng”. Anh nghĩ
sao? Nhất là về hai chữ “làm dáng”?
Cụm từ ‘làm
dáng’ do chính tôi bày ra. Trong ‘Siu cô nương’ một nhân
vật đi Paris tới khu Opéra mua một lọ nước hoa về tặng
người bạn gái kể với bạn rằng bị cô đầm bán hàng
bơm thử chút nước hoa đó lên áo làm cho anh chàng vội về
hotel thay bộ áo khác sợ ai ngửi thấy bảo là chàng làm dáng.
Thanh Tâm Tuyền, họp với vài người trong nhóm Sáng Tạo bàn
chuyện dìm truyện của tôi, đã túm lấy cụm từ làm dáng
đưa lên tựa bài đả tôi (Văn nghệ làm dáng). Ý độc của
Thanh Tâm Tuyền tôi cũng bỏ qua. Thử hỏi mấy cừu a dua Thanh
Tâm Tuyền dùng cụm từ ‘làm dáng’ rằng trong Việt ngữ
làm dáng nghĩa là gì, một người nữ nếu không làm dáng
liệu có ai làm thơ ca tụng sắc đẹp, chút hồng lên má chút
son tô môi đều là làm dáng, nói năng êm tai cũng là làm dáng.
Muốn chê nhè nhẹ thì kêu cô bé làm dáng QUÁ. Chê tôi nâng
cao phẩm chất tác phẩm của tôi (nội dung và hình thức,
tư tưởng, lời văn, trình bày) bằng cách ra ngoài khuôn mòn
đặt ra từ ngày nhà văn VN bắt đầu viết theo kiểu tác
giả Tây (xưa ít đọc ngoại ngữ khác) chỉ có ác tâm (bực
vì nó đi trước!) mà thôi. Sau này có những anh em trẻ bảo
tôi, Bị chê làm dáng là khen. Nội dung cũng như hình thức
truyện của tôi rất khác với mọi truyện đã in ra thời
đó. Tôi cố ý làm dáng cho tác phẩm của tôi, truyện đó
cũng như mọi truyện ngắn dài khác của tôi. Tà Cúc ơi, tôi
đã được Thày đặt cho bút hiệu Mặc Đỗ (họ Đỗ trầm
lặng, khiêm cung) tôi rất chịu và cố giữ mãi như vậy,
nhưng nếu tôi có lấy làm hài lòng về tôi thì do tôi đã
làm-khác được truyện VN từ đó (Khoan kể lại với tôi
Đỗ Đức Thu đã lấy làm ngạc nhiên hỏi Khoan, Sao anh ấy
lại viết như thế nhỉ? khi bàn tới truyện của tôi, Khoan
bảo, Tao chỉ cười thôi) Bây giờ được đại văn hào mỉa
cả bọn làm dáng thì cũng hay!
Ngoài ra, vụ
đó nằm trong một mẻ “ngu” lớn xuất phát từ xu hướng
xô sang tả vì chớm phải bả ‘giải phóng thuộc địa’.
Kéo dài cho tới khi ‘trắng mắt ra’ ai viết ngoài địa
hạt bình dân nghèo khổ đều bị bài bác. Tôi nghĩ viết
không phải để cãi cho đám đông nghèo khổ, viết để đưa
ra mọi mặt của xã hội đương thời, để độc giả thấy
và ngẫm. Hồi đó tôi mô tả xã hội mà tôi quan sát được
(vì gần bên) cũng ngầm bêu cái xã hội đó và vô tình giải
thích được tại sao cơ hội ngàn năm một thuở cả nước
bỏ qua mất.
5. Xin anh cho biết
thêm về nhóm Quan Điểm.
Tôi luôn luôn
nghĩ rằng ngả tìm hiểu anh em chúng tôi là ngả sách, bài
đã viết in ra, đừng tìm tòi hơn làm gì, vì chúng tôi chỉ
là những con người tầm thường, chẳng có gì đặc biệt
(đúng như trong thư và 'tuyên ngôn' Viên Linh công bố trong
số chủ đề Vũ Khắc Khoan)
Chúng tôi không
nhìn tiểu tư sản như một giai cấp. Đó là thành phần đông
nhất trong một xã hội, thành phần năng-lưu (mobile) nên rất
năng-động. CS thích phân chia giai cấp cho nên có vụ 'giai
cấp mới' rồi bây giờ lại có 'tư bản đỏ'. Theo Simon Leys
trong Ombres chinoises (Union générale d'Edition, Paris 1977)
tại Trung Cộng nay có 30 (Leys viết rõ 'trente classes' trong sách)
giai cấp căn cứ theo trình độ được thụ hưởng phúc lợi
Nhà Nước, trong một giai cấp còn phân ra nhiều giai cấp.
Lập trường tiểu tư sản luôn luôn được đề rõ qua những
gì chúng tôi viết ra. Chúng tôi không làm cách mạng (như ông
Võ Phiến buộc vô bằng) chúng tôi không lập hội kín (Tà
Cúc và Viên
Linh nắm tay cùng làm Khởi Hành có là làm hội kín không).
Thí dụ, từ Plato với cuốn Republic đến Thomas Moore
với cuốn Utopia, và sau đó bao nhiêu người khác, dùng
sách đưa quan điểm chính trị, xã hội, ra đều làm cách
mạng, lập hội kín chăng.
Nhưng tôi rất buồn
rằng nhóm nuôi kỳ vọng nhưng chưa làm được gì đã lần
lượt lá rụng, vì thế tôi chán chỉ muốn quên đi không
muốn nhắc chuyện cũ (chúng tôi in được gì thì đó là chúng
tôi/đừng tìm hiểu thêm) Chúng tôi là một nhóm anh em quen
biết nhau từ lâu, tuy mỗi người là một quả núi nhưng có
một quan điểm chung (loài người mang nặng bịnh tham, trong
mọi xã hội thành phần trung lưu vì năng-lưu trên những nấc
thang xã hội nên năng-động, tạo hạt nhân cho tiến hoá về
mọi phương diện), chúng tôi ngồi lại cùng khai triển quan
điểm đó, ôn hoà KHÔNG CÁCH MẠNG. Hồi tôi tìm hiểu để
viết cuốn ‘Thế giới TTS' nhận thấy vấn đề nặng tính
kinh tế hơn mọi cạnh khác trong khi anh em hiện không có ai
chuyên ngành đó (vấn đề còn nhiều phần rộng hơn điểm
thiếu này) nhóm có khựng lại là vì thế, cần tìm thêm anh
em. Thế rồi hoàn cảnh chung đổi thay. NHÓM không có hoạt
động công khai với tư cách một nhóm, chỉ có cá nhân mỗi
người ở một cương vị có những hoạt động công khai.
Chúng tôi cũng có những thế hệ sau, tương lai tùy nơi cố
gắng của những em đó, cũng tùy hoàn cảnh nữa.
Anh em trong
nhóm Quan Điểm có những người có một quá khứ riêng nếu
đem gom những hoạt động TRƯỚC KhI THÀNH NHÓM và bảo rằng
của nhóm thì sai. Chúng tôi ngồi lại với nhau vì là bạn
và thấy đồng một quan điểm, mạnh ai người ấy phát huy
quan điểm (thật ra quan điểm của Quan Điểm chẳng riêng
gì của Quan Điểm, nó là của chung của đa số người Việt
Nam, chúng tôi chỉ có tham vọng tập đại thành quan điểm
chung đó) Điểm rõ nét của nhóm Quan Điểm, anh em chúng
tôi chẳng ai giống ai. Chúng tôi ngồi lại với nhau được
vì ai cũng biết trọng tự do của người khác. Có một điểm
giống, ai cũng tin nơi cái lẽ THAM Phật dậy; con người
sinh ra để tham cho nên không thể nào vô sản, nhưng ấn định
cái mức có như thế nào thì chưa ai trên mặt đất này định
được, nhất là thực hiện cái mức lý tưởng đó. Còn tham
con người còn khổ, viết để mô tả nỗi khổ. Khi cầm bút
chẳng ai giống ai được, vả lại nếu hai người viết giống
nhau thì một người phải vội vàng vứt bút đi.
Còn nhà xuất
bản Quan Điểm do tôi lo, chẳng có Duy (tức là Duy Dân -chú
của người phỏng vấn) nào ở sau lưng hết. Sách in tại
nhà in nào tôi quen và giá rẻ. Mãi sau có mấy người bạn
lập nhà in Hợp Lực mời (tôi ghét dùng chữ Mời) đặt trụ
sở tại đó với điều kiện độc quyền in.
6. Anh nghĩ sao về
Văn Học Miền Nam? Đã có sự kêu ca rằng Văn Học Việt Nam
luôn luôn thiếu người phê bình. Văn Học Miền Nam càng thiếu
người phê bình có những tác phẩm cho trọn vẹn mà lý do
lớn nhất là sau khi MN mất, họ đã không được tiếp tục
viết nữa. Tại hải ngoại đã lục tục có vài người nhân
danh nền văn học ấy như Võ Phiến hay xuất hiện một vài
tay em (“em” ở đây có nghĩa là chưa đủ bản lãnh văn
nghệ và kiến thức qua sự truy cứu một cách nghiêm
chỉnh) để phê bình VHMN. Người phỏng vấn anh, cũng là một
người phê bình, rất muốn biết ý kiến của anh về vấn
đề này.
Cho tới nay,
tôi chưa hề đọc những đại luận văn học của nhà văn
Võ Phiến. Ông bạn Võ Thắng Tiết có hảo ý gửi cho cùng
với mấy cuốn khác mới ra lò của nhà xuất bản Văn Nghệ
trong số có cuốn đầu trong bộ phê bình văn học lừng danh.
So tư cách tác giả (tôi biết khá rõ) với bề dầy của công
việc toan làm tôi đã không muốn đọc nhưng cũng thử xem
chú-thợ-giầy-của-La Fontaine-muốn-leo-cao-hơn-giầy-dép
có tự đánh giá cao không, đọc mươi trang thấy quả là có,
tôi buông sách và từ đó không bao giờ biết có bộ sách
danh tiếng, mãi khi đọc Tà Cúc trên Khởi Hành tôi mới thấy
nó to quá.
Tôi chỉ đọc
một ít trang, vì tôi tò mò thử xem Võ Phiến luận về Võ
Phiến ra sao cho nên sau đó, trả lời thư một ông nhờ tôi
lựa một số truyện ngắn các tác giả Việt Nam để dịch
ra Anh văn (chắc hẳn rấp ranh có một vụ grant nào đó), tôi
trả lời rằng tôi cũng viết truyện ngắn nếu tôi lựa hay
không lựa truyện của tôi sẽ lâm cái nạn Võ Phiến-thẩm-
định-về-Võ Phiến, tốt hơn nên nhờ một vị giáo sư đứng
ngoài vòng. Đọc thư phỏng vấn của Tà Cúc, tôi mới biết
Võ Phiến không những chê tôi làm dáng còn chê chung cả bọn.
Viết truyện không hiểu nghề viết truyện lại đòi phê bình
người khác. Tôi từng đọc thấy qua lời viết của một
số con-chiên hiểu cụm từ làm dáng qua giáo huấn của “thày”
Thanh Tâm Tuyền, nay được biết đại văn hào cũng là con
chiên của “thày” đó. Thái độ của tôi như vậy nhưng
tôi sẵn sàng, và vui, đứng bên Tà Cúc trong công việc Tà
Cúc đang theo đuổi.
Về trường
hợp viết sách phê bình tôi nghĩ rằng làm ngự sử văn học
cần nhiều điều kiện kiến thức và tư cách (làm thơ viết
văn có thể do có khiếu và cũng chịu học tập kỹ). Kiến
thức của ông nhà văn quèn, công chức tỉnh nhỏ học hành
đến đâu, lương tâm chức nghiệp (phê bình) có tương xứng
không, liệu có đủ tin? Tư cách hạng bét mà dám đứng ra
xin tiền để làm một công việc xét định về tác phẩm
của bao nhiêu người khác, xét định không những về tác
phẩm mà còn về con người và đời sống, hoạt động của
những người khác (làm vậy là định bôi xấu, vu cáo người
chứ không phải phê bình văn học). Người chẳng có bao nhiêu
kiến thức vớ được tiền ăn xin tức thì nhẩy lên địa
vị phê bình để phê bình toàn thể người cùng nghề với
mục đích rõ rệt đội mình lên địa vị độc tôn với
ý mong sử sách sau này ghi nhận mãi. Tham cỡ đó chẳng đổi
được, chỉ khi nào bị đau quá tỉnh ngộ vội nhờ cõng
vô emergency để y sĩ giải phẫu cắt cái tham đi.
Chúng ta có
một lợi điểm rất nặng: bọn viết báo viết sách đó THIẾU
TƯ CÁCH để làm việc đó. Thí dụ có người viết 'hồi
kí' nhưng tuổi tác và thân-phận-thật có tư cách gì để
BIẾT bao nhiêu sự việc trong 'hồi kí'. Đại văn hào vỗ
ngực chịu ảnh hưởng Proust nhưng nhìn vào sự nghiệp của
ổng không thấy một lông chân của Proust. Từ tuổi lớn,
đi học, Proust khâm phục Freud và thuyết phân tâm của Freud,
vì bịnh Proust lui về vùng quê, để áp dụng triệt để phân
tâm vào tác phẩm, gốc gác của Proust là giai tầng quý-phái
Pháp, môi trường truyện cũng là đó. Mơ hồ về Proust thì
làm sao hiểu nổi bao nhiêu người viết khác để phê bình.
Hơn nữa không ai phút chốc nhẩy tót lên bàn vỗ ngực nhận
là phê bình gia, phải học nhiều lắm, kinh nghiệm nhiều lắm!
7. Trong tạp chí
Văn Học, số đặc biệt “Văn Nghiệp Võ Phiến”, có đoạn
như sau: ”Võ Phiến chủ trương tạp chí Văn học Nghệ Thuật...Cùng
làm việc với ông có Lê Tất Điều, Mặc Đỗ.” (Trần Long
Hồ, VH số 150-151 trang 134, tháng 10&11. 1998, sđd). Sự
kiện này rất lạ. Tà Cúc chưa bao giờ đọc thấy ở đâu
là anh “làm việc” với hai người này cả. Sự thực ra
sao? Nếu không đúng thì càng lạï hơn nữa vì VP phải đọc
chi tiết này trên bài của Trần Long Hồ. Như thế tại sao
Võ Phiến không cải chính? Trần Long Hồ lấy tài liệu này
ở đâu mà viết? Từ Võ Phiến chăng?
Hồi mới qua
đây anh em còn loạc choạc ai ra báo tôi cũng sốt sắng góp
bài góp ý nếu hỏi, nhưng tôi chẳng ngồi trong báo nào hết,
vì ở xa cũng có và cũng vì còn phải lo mọc rễ trên đất
mới, bận lắm. Tôi nhớ tờ 'Bút Lửa' (?) của LTĐiều ra
số đầu gửi tặng tôi, tôi liên tình gửi tiền mua một
năm, Điều trả lại tiền, viết thêm đại khái 'anh có công
với văn học Miền Nam lắm, tặng anh chứ đâu lại để anh
mua'. Khi tờ 'VHNT' ra tôi cũng có viết một hai bài, báo có
gửi biếu cho tới khi có ông chủ trương mới gì đó thì
thôi. Ông Trần Long Hồ viết như thế hân hạnh cho tôi quá!
8 . GS Nguyễn Văn Trung
là người nhắc đến việc một số các tạp chí văn học
của Miền Nam đã nhận sự tài trợ của chính phủ Ngô Đình
Diệm hay Hoa Kỳ với một thái độ điển hình như sau “Bây
giờ viết lịch sử văn học, báo chí thời Đệ Nhất cộng
Hòa, thiết tưởng về xuất xứ, phải trả Sáng Tạo cho USIS,
cơ quan chủ trương Sáng Tạo..” (Văn Học Trong Vòng tay Chính
Trị). Thái độ ấy lại được bầy tỏ cách khác nữa qua
một vài người viết lách ở hải ngoại, thiếu hiểu biết
về Văn Học Miền Nam mà lại bị nhược điểm là không quen
biết sâu xa với nhiều nhà văn Miền Nam hay có khi chỉ quen
biết với cặn bã của nền văn học này, đã lập lại như
con vẹt : "Giảm mối âu lo tài chánh để rồi tai tiếng như
tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo đã nhận trợ cấp của phòng
Thông Tin HK...” (Trần Vũ, Hợp Lưu số 67, trang 30). Chúng
ta có thể biết rõ hơn về hoàn cảnh, sự suy nghĩ của những
nhà văn MN từng làm báo-như Mai Thảo với Sáng Tạo- qua kinh
nghiệm của anh với tờ nhật báo Tự Do hay không?
Nghị định
cho phép Tự Do chính tôi ký (Công Báo VNCH, CS còn giữ đủ
bộ tại thư viện SG), tôi tập hợp ban chủ trương, suốt
thời kỳ TD hoạt động, mọi sự việc hoàn toàn do chúng
tôi. Khởi đầu trào di cư có một số là chuyên viên báo,
để bày một nơi làm việc cho những anh em đó, đồng thời
dựng lên tiếng nói của người di cư và đề cao lý tưởng
tự do dân chủ, tôi bàn với Khoan (hồi đó cùng ở bộ Thông
tin) nên cho ra một tờ báo. Tôi đứng ra mời anh Tam Lang vì
ảnh to đầu nhất trong đám nhà báo di cư và rất đứng đắn.
Có giấy phép rồi phải lo tìm vốn. May sao có tổ chức quốc
tế International Rescue Committee (IRC) đại diện tới SG là ông
Joseph Buttinger sẵn sàng tài trợ cho tờ báo. Nếu chúng tôi
không biết rõ về gốc gác và chủ trương của IRC thì nhất
định không tìm và nhận tài trợ và đã không có tờ Tự
Do, hoàn toàn không có chuyện chính phủ Diệm can dự. Tuyệt
đối chính quyền VN không bỏ ra một xu nào. Từ phút đầu
tôi nghĩ ra, bàn với Khoan đồng ý cho tới ngày cuối cùng
của tờ báo tuyệt đối không một ảnh hưởng nào từ bất
kỳ đâu tới đường lối và hoạt động của tờ Tự Do.
Chính quyền VN cử ông Bộ Trưởng phủ Thủ Tướng đứng
ra nhận tiền.
Ban chủ trương
(in rõ mỗi ngày trên măng-xét) chỉ có Tam Lang, Vũ Khắc Khoan,
Đinh Hùng, Mặc Thu, Như Phong và tôi; có bốn người quen biết
từ lâu, MT và NP mới gặp ở SG di cư. Anh Tam Lang chủ nhiệm
lo điều hành, Mặc Thu lo trị sự tiền bạc, Vũ Khắc Khoan
là người trực tiếp liên lạc với J. Buttinger của IRC, tôi
không dự. Sau một lượt tài trợ ban đầu, TD tự nó đứng
vững (lập trường hợp với độc giả di cư, tài tổ chức
bán báo lo trị sự) còn có lời là khác. Tuy ở trong ban chủ
trương VKK rất ít đến tòa báo và không hề viết một bài.
Tôi lo cho TD chạy đều rồi thì để anh em làm vì Khoan với
tôi không chờ đợi dùng tờ báo vào mục đích nào khác hơn
là như ngay từ đầu (công việc cho một số ký giả từ Bắc
rút vô, đưa tiếng nói di cư, đề cao dân chủ tự do chống
CS), gần như liên tục từ đầu đến đuôi (đôi khi tôi đi
vắng xa) mỗi ngày tôi viết một bài ngắn in ở góc trái
cuối trang nhất, viết xong ghé tòa báo nộp anh TL rồi đi
lo công viêc; ít khi tôi ngồi lâu ở tòa báo trừ một thời
kỳ trưa nào tôi cũng phải đến để gợi ý cho họa sĩ Phạm
Tăng vẽ tranh ngạo chính trị mỗi ngày (họa sĩ này ít gần
chính trị nhưng vẽ được).
Tờ báo thành
công rực rỡ đồng thời với chính quyền quốc gia di xuống
Hải phòng rồi rút lui hẳn khỏi miền Bắc. Có một số nhân
viên Thông tin Bắc việt muốn nhẩy vào ban chủ trương Tự
Do nhưng không được, lý do dễ hiểu: mọi sự khởi đầu
nan, nhóm ban đầu có công gây dựng phải được giữ, với
công việc đang chạy khó thay đổi lớn, tuy nhiên hết thảy
nhân viên Thông tin ở Bắc vô ai muốn đều có công việc
trong tòa báo. Lâu ngày, tôi không nhớ rõ bao lâu sau, tôi hay
tin chính quyền hội Ngô đang muốn nắm giữ tờ báo. Tôi
bàn với Khoan nếu muốn gỡ thế kẹt sau đó sẽ khó chi bằng
chấm dứt hoạt động để mặc họ sau đó ra báo khác hãy
tiếp tục. Quyết định bỏ Tự Do tôi bàn với Khoan, Đinh
Hùng rồi hỏi ý anh Tam Lang, anh đồng ý tiến hành. Bỏ Tự
Do có nghĩa là bỏ lại hết những sở hữu, sở đắc của
tòa báo. Một thời gian ngắn sau đó báo được tái bản với
một chủ nhiệm (không có Ban Chủ trương) và một ban biên
tập chọn lọc. Tự Do mới thừa hưởng những gì sẵn có.
Tự Do cũ với tài trợ của IRC để thực hiện ba mục đích
trên. Sinh hoạt của tờ báo về mọi phương diện ở trong
một tình thần hoàn toàn tự do, không có sự kiểm soát hay
ảnh hưởng của tổ chức tài trợ cũng như bất kỳ ai khác
ngoài nhóm chủ trương.
Bọn cán bộ
của Nga sô tại VN hay mỉa mai chuyện cầm tiền của người
ngoài!!! Tôi nghĩ rằng thời đó Mỹ dàn trận ngăn Cộng (tất
nhiên mưu lợi cho Mỹ trước hết) ta có cầm tiền của Mỹ
để chống Cộng thì có sao, miễn là đừng không chống
Cộng lại bỏ túi riêng. Báo Tự Do nhờ có tiền của tổ
chức IRC (không phải nước Mỹ) mới có mặt ở Sài Gòn chống
Cộng và tay sai của Pháp, tôi chẳng thấy xấu ở chỗ nào.
Đến khi Tự Do vào tay điều khiển của Trần Kim Tuyến thì
khác, nó im tiếng sau khi nhà Ngô hết.
9 . Những người đã
từng viết, đã từng tham dự vào một giai đoạn lịch sử
qua ngỏ văn chương dĩ nhiên không thể tránh được sự nhận
xét hay phê bình. Nhưng có những sự mà chúng ta phải gọi
là phỉ báng khi người viết bịa đặt quá sức với một
ác ý rõ rệt, là nhắm tiêu hủy danh dự của người bị
nhắc đến. Một trong những cuốn như vậy đã nhắc đến
những người như Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, cho rằng
họ có dính líu tới việc thành lập Đảng Cần Lao và cũng
viết rằng anh là đảng viên đảng Duy Dân. Có đúng không?
Anh nghĩ sao về những cuốn sách đại loại như thế? Phản
ứng của anh?
Tôi đã biết
cuốn sách đó nhưng không đọc và tôi đã bắt chước, dùng
lời của ông Tướng Nguyễn Khánh tự nhủ, rồi yên bụng
quên vụ đó đi. Số là trong một dịp họp nội các sau khi
ông tổng trưởng Ngoại Giao tường trình về một vụ gì
đó ông tướng ra huấn lệnh, Cứ coi như nơ-pa. Ông Tổng
trưởng ậm ùa nghe lời và vội về Bộ hỏi ông Đổng lý,
Cứ coi như nơ-pa là thế nào? Cũng may ông Đổng lý là người
trẻ thạo thứ Pháp ngữ hè phố đó, nếu không đã phải
chờ cuốn Tầm nguyên Từ điển Lê Ngọc Trụ!
Tôi bắt chước
danh ngôn coi cuốn sách như nơ-pa vì một lý do trọng đại
gấp trăm lần hơn. Tôi nghĩ rằng từ Thế chiến II và sau
đó bao nhiêu triệu người Việt già trẻ lớn bé nam nữ,
có mặt đã đánh mất cơ hội ngàn năm một thuở đất nước
có thể khôn khéo và đoàn kết tìm cách thoát được đô
hộ; đánh mất vì bên trong đa số lo vinh thân phì ra, rời
rạc mạnh ai nấy lo thân, bên ngoài một phần thờ ơ, quên
gốc, một phần say bả ‘giải phóng thuộc địa’ của Nga
sô. Cơ hội đến đã không nắm được lại tiếp tục xâu
xé nhau, tàn phá hương hỏa, đưa tới thảm trạng ngày nay,
chưa biết gỡ khỏi cách nào trong khi tình hình quốc tế bất
lợi và ngày một trầm trọng. Nông nỗi nhục nhã đó tôi
nghĩ hết thảy mọi người Việt, đối diện với những dân
tộc khác trước đây đồng cảnh, đều phải cúi mặt chịu
nhận đừng đổ thừa cho ai. Bao triệu đồng bào chịu nhục
như thế thì một người hay một số nhỏ người có bị bôi
nhọ, kết tội, đến đâu có thấm gì.
Nhưng Tà Cúc
đã hỏi thì: có vài ba người là đảng viên Duy Dân kỳ cựu
(Lê Quang Luật là bạn thân của mấy anh em chúng tôi, nhưng
không ở trong nhóm). Anh em tuyệt đối tôn trọng tự do của
nhau về mọi phương diện , trong khi nhóm tuyệt đối không
chịu ảnh hưởng của bất kỳ một đảng phái nào. Riêng
tôi xác định rõ, Tôi không là đảng viên Duy Dân, không cả
đảng nào khác, tuy có quen khá thân với nhiều anh em ở các
đảng; tôi không thích ép mình vào một kỷ luật đảng. Đảng
viên Cần Lao không đến nỗi ngu phải đi mua lý thuyết của
đảng khác, họ thiếu gì người đủ kiến thức. Khoan, Hồng
với tôi khá thân, đủ thân đến độ anh nào có món tiền
to là anh em biết ngay. Tập lý thuyết được bảo là của
đảng ‘Bình sản’ do mấy anh em ban đầu viết ra, nó chẳng
ghê gớm đến độ Cần Lao phải đánh đổi đủ thứ để
có. Tôi có một bản, xếp trên kệ cùng mọi sách khác, nếu
hồi đó ai muốn có thì cũng dễ lấy cắp lắm, can chi phải
bày chuyện hoang đường như trong cuốn sách kia.
Tôi coi cuốn
sách đó như nơ-pa vì tôi cũng biết và tin rằng sử học
bây giờ đang tiến rất xa, sử gia có trong tay những phương
tiện truy cứu trước chẳng thể có, sự thật dễ dàng được
phanh ra, lo gì những trò spinning đủ kiểu luôn luôn được
đưa ra trước công luận. Điểm quan trọng là mỗi người
trong cuộc khi đứng trước gương nhìn thẳng được vào mắt
thằng (hay con) trong gương không chớp mắt, thế thôi
10. Cuối cùng, ý của
anh về Văn học Việt Nam hải ngoại?
Người trong
cuộc biết ăn nói sao cho phải phép? Tôi không thể nằng nặc
khen, tôi cũng không thể đột nhiên nhảy tót ra ngoài cuộc
để vểnh môi chê bai đủ thứ. Tôi nghĩ việc phê phán cho
thật đúng, thật lương thiện, phải để dành cho đời sau.
Bây giờ ai chê ta biết liền tại sao, mưu toan gì mà chê.
Ai khen ta thành thật với chính ta phải cười xòa bảo, Gớm!
cái đuôi của tôi dài có bây nhiêu mà Mèo khen quá khiến
tôi phát ngượng!
Điểm đáng
nêu ra là: từ 1954 đến 1975 người ở ngoài nhìn bằng con
mắt khách quan phải nhìn nhận rằng những người Việt Nam
từ Bến Hải tới mũi Càmau có tự do (không có thứ tự do
nào tuyệt đối cả) và những người làm văn học nghệ thuật
cũng như mọi sản phẩm của họ đều có màu sắc, tư cách,
tự do.
Nguyễn Tà
Cúc : Cảm ơn anh./.
***Những tài liệu trong
bài phỏng vấn này sẽ được sử dụng trong một bài viết
về nhà văn Mặc Đỗ (và nhóm Quan Điểm) năm tới.
 |