Hồ Ngạnh
Hồ Ngạnh tên thật là Hồ Nhu, sinh năm Ất Măo (1886), mất năm 1976, thọ 90 tuổi. Ông nguyên quán thôn Háo Ngăi, xă B́nh An, huyện B́nh Khê, cư ngụ tại thôn Ḥa B́nh, xă B́nh Thuận, huyện B́nh Khê (Tây Sơn), tỉnh B́nh Định. Cha là ông Đốc Năm, một vơ quan của triều Nguyễn và mẹ là bà Lê Thị Huỳnh Hà , cũng là con nhà vơ.
Ngay từ lúc bé, ông đă được cha mẹ dạy vơ gia truyền. Lớn lên, ông học roi của cao sư Ba Đề, học nội công của ông Đội Sẻ, tiếp đến học roi của ông Hồ Khiêm. Đường roi kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, lại thêm nội công nên cứng cáp và sâu hiểm vô cùng. Từ roi thế, roi đấu, roi chiến đến roi trận, ông đều tinh thông và độc đáo.
ROI THUẬN TRUYỀN1- Hồ Ngạnh và đường roi tuyệt kỹ vang danh đất Thuận Truyền
Trong lịch sử vơ cổ truyền B́nh Định, nói đến roi Thuận Truyền, nhân vật mà người ta nhắc tới trước tiên với niềm tự hào và ḷng tôn kính vô bờ là Hồ Ngạnh. Thật ra Ngạnh là tên con, c̣n tên thật của ông là Hồ Nhu. Ông sinh năm 1886, quê quán ở thôn Háo Nghi, xă B́nh An, trú quán tại thôn Ḥa Mỹ xă B́nh Thuận, thuộc tổng Thuận Truyền huyện B́nh Khê. Theo gia phả họ Hồ, song thân Hồ Nhu - ông Đốc Năm (Hồ Đức Phổ) và bà Lê Thị Huỳnh Hà - đều là những vơ nhân cao thủ, đặc biệt là bà mẹ, đă ảnh hưởng rất quan trọng đến việc đào tạo tài năng vơ thuật của con trai, đồng thời có công lớn trong việc khai sáng ḍng vơ họ Lê và họ Hồ trên đất Thuận Truyền.
Hồ Nhu được thọ giáo với nhiều thầy học khác nhau, học cả quyền và thập bát ban vơ nghệ. Những vơ sư mà Hồ Nhu theo học là Đội Sẻ, Hồ Khiêm… Song hai người thầy ảnh hưởng quan trọng nhất trong cuộc đời Hồ Nhu là mẹ ông và một người thầy khuyết danh (bạn của cha ông, từng là tạo sĩ vơ). Hồ Nhu sở trường về roi và thành danh cũng về roi. Đường roi của ông được giới chuyên môn truyền tụng là tuyệt kỹ vô song. Trong vô vàn giai thoại về vị vơ sư khai môn ḍng vơ Thuận Truyền này, riêng chuyện ông học roi, luyện roi cũng đủ khiến ta khâm phục về tinh thần khổ luyện.
Năm Hồ Nhu tṛn mười hai tuổi th́ bà Lê Thị Huỳnh Hà nhờ một vơ sư trong vùng dạy vơ, tối về bà kiểm tra và uốn nắn cho con những chỗ sai. Khi thấy con đă thạo ngũ hành, thất bộ, bà bắt đầu dạy roi. Những đêm trăng sáng, bà dẫn con ra truông vắng, chọn một khoảnh đất bằng, chỉ dẫn từng chiêu thức. Người mẹ dùng than vẽ một ṿng tṛn trên mặt đất, cho phép con chỉ được di chuyển trong phạm vi ṿng tṛn đó. Bà yêu cầu rất cao về sự chuẩn xác trong đường nét, thân pháp và rèn tính cẩn trọng. Để thử uy lực trong đường roi của con, bà lấy bốn cái đĩa lớn đựng dầu phụng (dầu lạc), mỗi đĩa ngâm một ngọn bấc, đặt quanh ṿng tṛn rồi châm lửa vào đầu bấc. Bốn ngọn lửa bừng lên, khi nào ngọn gió từ đường roi phát ra làm tắt phụt cùng lúc là đạt.
Trong vơ thuật, vũ khí không chỉ để công mà c̣n là để thủ. Công hay thủ đều đ̣i hỏi sự tinh nhạy của người đánh. Lúc Hồ Nhu đă tiến bộ, mỗi khi cậu múa roi, bà mẹ di chuyển xung quanh, dùng sỏi ném vào. Sỏi trúng vào roi vào người cắc cắc, bụp bụp. Ban đầu cậu đỡ đ̣n c̣n vụng về, sau điêu luyện dần, đường roi vun vút, tiếng sỏi va cắc cắc mỗi lúc một gịn. Những vốc sỏi ném vào bị đường roi của Hồ Nhu gạt rụng rào rào như một cơn mưa.
Việc ông tạo sĩ vơ đến lánh nạn tại nhà họ Hồ là cơ duyên đặc biệt để Hồ Nhu tiến tới bước “đại thành” trong kỹ thuật đánh roi. Vị tạo sĩ này rất giỏi roi Kinh, thời c̣n tại triều ông đảm trách việc luyện roi cho quân cấm vệ hoàng thành. Trong những ngày lưu lại Thuận Truyền, khảo sát tâm tính và vốn vơ nghệ của Hồ Nhu, ông tạo sĩ nhận ra một năng khiếu vơ học hiếm có. Để đền ơn bạn đă cưu mang, ông quyết định luyện các ngón roi bí truyền cho cậu thiếu niên.
Người con đầu của Hồ Nhu tên là Ngạnh. Theo phong tục B́nh Định, người ta gọi cha mẹ bằng tên con. Gọi riết thành quen, người đời gần như chẳng mấy ai nhắc tới tên húy của ông mà gọi luôn là Hồ Ngạnh.
Đặc điểm roi Hồ Ngạnh (hay đặc điểm roi Thuận Truyền) là lấy nghịch chế thuận, vận dụng triệt để phép âm dương để trả đ̣n, để đánh hạ đối thủ. Đường roi Lạc Côn Hồ Nhu học từ Hồ Khiêm là đường roi tuyệt kỹ với nguyên tắc cộng lực, dựa sức đối phương để đánh lại đối phương. C̣n ngón roi đánh nghịch độc đáo do vị tạo sĩ vơ truyền cho, Hồ Nhu chỉ dùng đến khi đối phương là cao thủ mà để lộ sát khí, tức là có ư hăm ông vào chỗ chết. Tương truyền ngọn roi khai tử của ông chấm vào sa mỡ của kẻ nào, là kẻ đó cầm chắc cái chết trong ṿng ba, bảy ngày. Roi đổ thủy (một đầu chúc một đầu ngửa), roi rút (đánh hai đầu) và roi điểm huyệt cũng là các tuyệt chiêu của ông. Những ngón roi này ông chỉ truyền cho một vài học tṛ tâm đắc.
Mỗi bài roi Thuận Truyền - nay đă khá phổ biến ở B́nh Định - gồm lời thiệu và động tác. Lời thiệu để dẫn dắt động tác, c̣n động tác là các đ̣n thế được tổ chức theo các phách roi cơ bản. Các phách roi cơ bản là Bát, Bắt, Triệt, Chận, Hoành, Khắc, Lắc, Tém. Bát: phá đ̣n đánh từ trên xuống; Bắt: phá đ̣n đâm từ nửa thân trên; Triệt: phá đ̣n đánh tạt ngang sườn; Chận: phá đ̣n đánh phất của đối phương; Hoành: đưa ngang roi bên trái rồi bên phải để lựa thế tấn công địch thủ; Khắc: làm cho roi của đối phương văng ra xa; Lắc: né đ̣n tấn công đâm thẳng từ thắt lưng trở lên; Tém: tóm gạt tất cả đầu roi, đ̣n đâm thẳng của đối phương. Trong đó, có phách nặng về thủ, có phách nặng về công, cũng có phách vừa thủ vừa công. Roi tiên quyền tiếp. với môn roi, bên ra đ̣n trước thường chiếm thế thượng phong. Nhưng không phải lúc nào, trận nào anh cũng gặp thuận lợi để ra đ̣n trước, do đó phải biết thủ để t́m cơ hội. Thủ không có nghĩa là né đ̣n thụ động, mà phải biết cách phá trừ đ̣n của đối phương rồi liền đó ra đ̣n tiêu diệt đối phương. Cũng có khi thủ là một cách trá bại để nhử đối phương vào thế. Các phách roi được sử dụng không phải nhất nhất theo thứ tự trên, mà phải linh hoạt. Linh hoạt ở chỗ không chỉ vận dụng phách nào thích hợp, mà c̣n biết chuyển hóa hư thực trong từng phách. Sự linh hoạt ấy biểu hiện đa dạng, nhưng có thể rút ra mấy đấu pháp: dùng thủ để công, trước thủ sau công, trừ công để thủ, thủ giả công thật.
Tiếng tăm con nhà vơ đi liền với thành tích trong giao đấu. Nhưng việc săn t́m danh tiếng là xa lạ với tính cách Hồ Ngạnh, v́ ông trầm tĩnh, ít nói và chẳng bao giờ khoe khoang. Song ở đời hữu xạ tự nhiên hương, tiếng đồn Hồ Ngạnh giỏi roi khiến nhiều cao thủ ṭ ṃ. Một bữa nọ ông đang tắm ở giếng th́ một người đi đường bước tới hỏi xin nước uống và cầm cái gáo dừa chờ ông sớt nước cho. Hồ Ngạnh vừa cúi xuống lấy gàu th́ vị khách nọ vung gáo đập vào đầu. Nghe hơi gió, ông vung ngay dây gàu đỡ thân gáo rồi sẵn đà co chân xuất cước đá văng vị khách vô lễ khỏi thềm giếng. Một lần khác Hồ Ngạnh đi ăn giỗ về hơi tối, bất chợt một bóng đen từ bụi rậm vác đao nhảy ra đón đường. Ông rút khăn lông trên vai vung lên, trong nháy mắt đoạt gọn cây đao. Bóng đen chắp tay xin lỗi. Hỏi, người ấy thưa rằng nghe đồn ông Ngạnh giỏi nên muốn thử sức. Hồ Ngạnh chỉ cười không nói, quăng trả cây đao, đi thẳng.
Các vơ nhân thử tài Hồ Ngạnh th́ nhiều, nhưng có hai nhân vật nổi tiếng nhất là Dư Đành và Tàu Sáu.
Dư Đành, như đă nói, là một cao thủ vơ lâm đương thời, cầm đầu một đảng cướp, hoành hành khắp vùng Tuy Viễn. Nghe tiếng Hồ Ngạnh Thuận Truyền, Dư Đành bèn nhắn tin hẹn gặp. Đêm đến, Hồ Ngạnh một ḿnh một roi ra điểm hẹn. Bè đảng Dư Đành chờ sẵn, mời ông hợp tác làm ăn. Hồ Ngạnh từ chối. Bên Dư Đành ra điều kiện nếu đấu thua phải gia nhập đảng cướp. Hồ Ngạnh chỉ cười khẩy. Thế là điểm hẹn nơi truông vắng xảy ra một trận thư hùng. Mặc dù bên đối phương đông, Hồ Ngạnh không hề nao núng. Đàn em Dư Đành tuy vào hàng cao thủ, nhưng đều không phải là đối thủ của Hồ Ngạnh. Khi bọn đàn em bị đánh rạp, Dư Đành mới lộ diện. Ngoài sức mạnh vô địch, Dư Đành c̣n có vơ công lăo luyện, nhưng trước đường roi thượng thừa của Hồ Ngạnh, tên chúa đảng khét tiếng không sao t́m ra chỗ hở. Thấy Dư Đành ỷ sức hung hăng, Hồ Ngạnh sử dụng tuyệt kỹ, đá văng thiết bản khỏi tay đối phương rồi xoay người giở thế đánh nghịch. Ngọn roi phăng tới, Dư Đành biết kết cục đă đến, nhắm mắt chờ đợi, nhưng tay roi vừa chạm áo đối phương Hồ Ngạnh đă thu về.
Nhưng Dư Đành vẫn chưa chịu bỏ cuộc.
Một hôm Dư Đành cho đàn em lên rẫy Hồ Ngạnh nhổ hết củ ḿ (củ sắn) chất thành mấy giỏ lớn và cho người về báo cho Hồ Ngạnh rằng Dư Đành đang ở rẫy ḿ, nhắn Hồ Ngạnh ra gặp. Lúc Hồ Ngạnh tới nơi chỉ thấy mấy giỏ ḿ và đ̣n gánh để sẵn chứ không thấy người. Đoán rằng Dư Đành âm mưu chờ ḿnh quảy ḿ về sẽ tấn công nên Hồ Ngạnh quay về tay không. Quả nhiên Dư Đành đă phục sẵn bên hàng rào chè của một nhà gần đường đi với một cái bắp cày bằng gỗ kiền kiền nặng trịch. Hồ Ngạnh vừa trờ tới, Dư Đành vung bắp cày ngang cổ ông đánh phạt qua. Nghe hơi gió, Hồ Ngạnh trụt xuống, bắp cày của Dư Đành đang đà phạt ngang cây bồ lời đứt tiện làm đôi như dao chém chuối. Nhanh như chớp, Hồ Ngạnh di ngựa áp sát tới, chụp ngang bắp cày trên tay Dư Đành, rồi vận dụng phép cộng lực trong thế lạc côn, biến sức đối phương thành sức của ḿnh, hất mạnh Dư Đành lọt vào giữa bụi tre đánh roạt. Mắc kẹt giữa bụi tre um tùm không cách nào thoát được, Dư Đành cất tiếng xin Hồ Ngạnh tha tội và đưa giúp ḿnh ra ngoài. Hồ Ngạnh giận, nói: “Chú đánh hiểm vậy, tôi né không kịp th́ đứt đầu rồi, c̣n xin tha sao?”. Dư Đành hạ ḿnh: “Tôi biết thế nào anh Chín cũng né được. Xin anh Chín rộng lượng bỏ qua. Từ nay tôi không dám nữa.” Hồ Ngạnh thấy Dư Đành van nài tha thiết quá, bèn mượn cây rựa phát tre cho Dư Đành ra ngoài. Xúc động trước sự đối xử cao thượng của họ Hồ, Dư Đành quỳ gối cúi đầu tạ tội và thề sẽ không bao giờ dám xâm nhập đất Thuận Truyền. Quả nhiên từ đó về sau, Dư Đành giữ đúng lời hứa.
Tàu Sáu- Diệp Trường Phát, là một vơ sư người Minh Hương ở An Thái. Việc thử tài của ông với Hồ Ngạnh là một ước định hữu hảo với hai môn côn, quyền, nhằm t́m hiểu tài nghệ của nhau nên giao hẹn không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục của đối thủ. Cuộc tỷ thí của hai ông diễn ra trước sự chứng kiến của rất nhiều người, lấy thời gian tàn một cây nhang tính một hiệp giao đấu. Qua mỗi hiệp hai người tự thông báo trên người ḿnh có bao nhiêu dấu mực của đối phương. Về quyền, mặc dù số dấu mực trên y phục hai bên bằng nhau, nhưng khi xem lại th́ dấu mực Tàu Sáu trên áo Hồ Ngạnh nhạt hơn. Ông Ngạnh thẳng thắn thừa nhận ḿnh thua Tàu Sáu một bậc. Người xem thắc mắc, ông phân tích: Đường quyền thế cước của Tàu Sáu hàm chứa sức mạnh giông băo, nếu đi trọn có thể đoạt mệnh hoặc gây chấn thương nặng cho đối phương, nhưng do đă đạt đến mức vận hành công lực như ư nên dấu mực vừa điểm nhẹ trên áo Hồ Ngạnh, Tàu Sáu liền thu khí công về trong nháy mắt. Về côn, hai ông cũng giở tất cả sở trường ra thi đấu, người xem không c̣n thấy rơ bóng người, chỉ thấy đường côn loang loáng và tiếng côn đập vang lên bôm bốp. Khi vừa tàn cây nhang, hai ông dùng thế hồi loan nhảy vút ra ngoài, bái tổ, rồi chào nhau, sắc diện vẫn điều ḥa tươi tỉnh. Họ lại tự báo với nhau số dấu mực trên người. Tàu Sáu mang nhiều dấu mực hơn, ông kính cẩn hoành côn xá ông Ngạnh, ứng khẩu: “Đoản côn Thuận Truyền duy hữu chủ”, nghĩa là: Đoản côn chỉ có Thuận Truyền (Hồ Ngạnh) làm chủ.
Hồ Ngạnh mất năm 1976. Các học tṛ thống nhất tôn ông làm tổ sư của môn phái và lấy ngày giỗ ông (mồng 6 tháng 2 âm lịch) làm ngày giỗ Tổ hàng năm.
Buổi sinh thời cũng như sau khi ông khuất bóng, v́ tài năng và uy tín vơ học của ông quá lớn, nên ở quê hương ông, các thế hệ hậu sinh và khắp một vùng dân cư rộng lớn, khi nhắc đến vị vơ sư đệ nhất tài hoa này đă dùng danh xưng Ông Chín để tránh gọi tên húy lẫn tên tục của ông. Tuy vậy, trong những hồi ức hào sảng về ông, hai chữ Hồ Ngạnh vẫn buột ra trên môi người kể chuyện với một niềm tự hào khó tả. Hoặc đang một ván cờ tướng, người đi được một nước cờ hiểm đắc ư khoe đó là “nước cờ ông Ngạnh”. Ông như vẫn đang sống cùng mạch đời, ẩn hiện trong những đường roi kỳ diệu của đất vơ Thuận Truyền.
2- Một số nhân vật nổi danh của ḍng roi Thuận Truyền
Hồ Ngạnh có nhiều học tṛ giỏi: Xă Nung, Lê Thành Phiên, Xă Trước, Cả Đang, Tạ Thức, Xă Thọ, Hương bộ Lâm, Hương bộ Trọng, Huỳnh Xuyến, Hồ Tiền, Lê Bá Cừu, Dư Trốn, Nguyễn Song Bá, Tạ Cảnh, Sáu Được, Lâm Như Hiệp, Bảy Gh́nh, Hương bộ Trấp, Cửu Quyền, Dư Đính, Đặng Vĩnh Nghê, Hồ Sừng, Phan Canh, Đào Sĩ Tần, Lê Kim Bá, Phan Hộ, Lê Công Chanh, Dương Công Đạo, Mai Xuân Thiện. Hiện nay cháu nội của ông là Hồ Sừng tiếp tục nối nghiệp ḷ vơ của ông.
Xă Nung tên thật là Nguyễn Thức, người làng Háo Đức, là học tṛ lớn nhất của Hồ Ngạnh. Ông giỏi vơ, nhưng lầm ĺ ít nói và không tham gia vào các cuộc cao đàm khoát luận. Hai thôn Bính Đức vào Háo Đức cùng sống về nghề làm ruộng, thường có sự tranh chấp về nước tưới. Đêm đêm dân Bính Đức ra tháo nước khiến cho ruộng Háo Đức bị khô. Người làng Háo Đức phẫn nộ nhưng ngại dân Bính Đức giỏi vơ nên phải chịu thiệt. Xă Nung biết chuyện, một ḿnh vác cuốc ra đồng đắp nước ruộng. Dân Bính Đức được tin, kẻ gậy gộc, người rựa quéo, đ̣n gánh ầm ầm kéo lên gây sự. Xă Nung không nói không rằng, bập lưỡi cuốc xuống bờ đất thịt, bẻ phăng cán cuốc làm roi, đánh tan cả mấy chục người. Từ đó dân Bính Đức không dám tháo nước ruộng làng Háo Đức nữa.
Lê Thành Phiên, tục gọi Hương bản Hào, là cháu họ của bà Lê Thị Huỳnh Hà. Lê Thành Phiên là đệ tử ruột của vơ sư Hồ Ngạnh. Buổi sinh thời của sư phụ, ông được Hồ Ngạnh dẫn theo trong các du lăm. Các cao thủ không dám vô phép với Ông Chín, nhưng họ lại rất muốn đo lường quyền thuật và côn pháp Thuận Truyền nên lắm phen Lê Thành Phiên bị làm phiền. Thử tài ông có nhiều người danh tiếng: Hương kiểm Mỹ, Hương bộ Trọng, Bảy Gh́nh, ... Hương kiểm Mỹ mới gặp ông đă đưa bông tiền đấm dứ trước mặt. Nếu ông mắc lừa lui lại, Hương kiểm Mỹ sẽ mở bông hậu ra đ̣n tiếp. Đoán được thâm ư của đối thủ, ông không tránh mà một tay giở bông tiền đánh thốc tới đỡ đ̣n, đoạn tay kia ra tiếp liền bông hậu hất Hương kiểm Mỹ ngă vô cối giă gạo. Sau chuyện này, Hương kiểm Mỹ ngộ ra chân lư “núi cao c̣n có núi cao hơn”, chuyên tâm t́m thầy hay để học tiếp, không ngừng nghiên cứu tập luyện, sau thành một vơ sư lừng lẫy. Hương bộ Trọng nghe mọi người ca ngợi ông Phiên th́ không phục, nói: “Để ta làm một đá thử chơi”. Nào ngờ thử rồi, từ chỗ coi thường chuyển sang bái phục. Bảy Gh́nh, một người cùng trang lứa với ông Phiên, cũng kiếm cớ so tài. Ông Gh́nh ra đ̣n nào ông Phiên hóa giải đ̣n nấy rất nhẹ nhàng, và cũng bằng một đường côn tuyệt kỹ khiến ông Gh́nh khuất phục, xin làm đồ đệ. Ông Phiên dẫn ông Gh́nh vào ra mắt thầy, từ đó Bảy Gh́nh thành học tṛ Hồ Ngạnh.
Nhiều phen ông Phiên phụng mệnh thầy nhận lời thách đấu của các cao thủ thập phương. Nổi tiếng nhất là trận đấu với Vơ Nhuận.
Lê Thành Phiên theo thầy lên Tiên Thuận dạy vơ, Vơ Nhuận - một vơ sĩ lừng danh ở Tiên Thuận t́m tới thách đấu. Thấy Vơ Nhuận vóc vạc to lớn, bộ điệu nghênh ngang, lại có một đám người theo sau hậu thuẫn, Hồ Ngạnh hỏi Lê Thành Phiên: “Con dám đấu không?”. Lê Thành Phiên thấy Vơ Nhuận to khỏe dềnh dàng th́ có ư ngại: “Thưa thầy, nó to xác quá, c̣n tôi nhỏ vầy, đấu sao cân?”. Vơ Nhuận hung hăng: “Nếu sợ đấu quyền không lại th́ ta đấu roi.” Trước sự chứng kiến của đám đông và trước ánh mắt của thầy, Lê Thành Phiên nhận lời: “Được!”, nhưng trong bụng vẫn lo lo. Hồ Ngạnh giao hẹn: đánh để phân tài cao thấp, không được gây thương tích; rồi cho lấy vải thấm mực bịt đầu hai cây roi. Hai bên nhận roi, bái tổ. Những người tới coi đấu ai cũng ái ngại cho Lê Thành Phiên. Không ai bảo ai, nhưng những kẻ hiếu kỳ dần dần đứng dạt về phía Vơ Nhuận. Vơ Nhuận ra đ̣n trước bằng thế đâm lỉa. Lê Thành Phiên nghiêng người né đ̣n rồi chấm roi liên tiếp vào bụng vào lưng đối thủ. Vơ Nhuận xin thua, nhưng lại đ̣i đấu quyền. Lê Thành Phiên ban đầu chỉ né đ̣n để quan sát, thấy Vơ Nhuận ỷ mạnh chứ ra đ̣n không kín. Bằng một thế đ̣n thấp, ông tiếp cận đối phương rồi nghiêng ḿnh tung một đá, Vơ Nhuận trúng đ̣n văng ra tới ba thước.
Một lần đấu roi với một vơ sư ở Phù Cát. Một lần đấu quyền với một vơ sĩ Quyền Anh có cân nặng gấp ba trọng lượng ông. Ba lần thượng đài tại các sàn đấu quốc gia tại Quảng Ngăi, B́nh Định. Chiến thắng, đó là mùi vị duy nhất Lê Thành Phiên nếm qua trong nghiệp vơ. Đoản côn, trường côn, trường thương, xà mâu, độc phủ, đặc biệt là siêu vào tay ông như có linh hồn. Lập bộ vững như núi thái sơn, tiến thoái như rồng như hổ, uy lực dũng mănh, phong thái phi phàm – ông xứng danh là học tṛ yêu của Hồ Ngạnh. Trong cuốn sổ ố vàng mà ông cất giữ cẩn thận như báu vật, là những ḍng chép tay về phả hệ họ Hồ, họ Lê; các bài vơ, bài thuốc ông học từ thầy Hồ Ngạnh, có cả những bài dịch ra thể lục bát cho dễ nhớ. Đó là những tư liệu quư giá ṛng ṛng kỷ niệm của một cuộc đời gắn bó cùng nghiệp vơ.
Sáu Được là một học
tṛ giỏi của Hồ Ngạnh, từng giành nhiều chiến thắng lừng lẫy trong các trận đấu
đài ở miền
Các học tṛ giỏi của Vơ sư Hồ Ngạnh, người thành danh với thành tích thi đấu, người mở vơ đường thành danh sư của một vùng, người khoác áo tu hành trở thành trụ tŕ ở những ngôi chùa danh tiếng, người sớm khuya vui với ruộng đồng xóm mạc… đều góp phần làm vẻ vang tổ nghiệp. Hỏi, chẳng ai khoe, nhưng nếu gặp họ trong ngày giỗ Tổ, hoặc một t́nh huống mà người trong cuộc là họ phải trả lời bằng ngôn ngữ đặc trưng của con nhà vơ, th́ hồn vía của Đất vơ Thuận Truyền sẽ hiển hiện trong từng cử động, từng đường roi thế kiếm xuất thần.
3- Ḷ vơ Hồ Sừng và việc duy tŕ nghiệp tổ
Vơ sư Hồ Sừng là cháu nội của Hồ Ngạnh. Thân sinh mất sớm, ông được ông nội đích thân truyền dạy vơ nghệ. Thông suốt vơ kinh, vơ đạo và nắm giữ toàn bộ di sản vơ thuật tông phái họ Hồ, tuy nhiên, do bản tính thuần hậu và sức khoẻ có phần hạn chế, vơ sư Hồ Sừng ít dự vào các cuộc tỷ thí tranh chức vô địch. Nối nghiệp nội tổ, ông mở vơ đường tại thôn Ḥa Mỹ, xă B́nh Thuận, huyện Tây Sơn; đào tạo các bộ môn vơ cổ truyền, đặc biệt là côn pháp. Học tṛ theo học rất đông. Có một quy ước bất thành văn tại làng vơ Thuận Truyền, đó là các học tṛ sau khi làm lễ bái sư, sẽ được lấy họ Hồ gắn với tên ḿnh để làm danh xưng trong làng vơ.
Về già hay đau yếu, ông giao quyền điều hành vơ đường cho con trai đầu, vơ sư Hồ Cương. Trong các giải vơ cổ truyền cấp tỉnh và cấp quốc gia, học tṛ Hồ gia được mời tham gia và luôn luôn lập thành tích cao trong thi đấu.
Con cháu của Hồ gia như Hồ Bé, Hồ Sửu, Hồ Hiệp, Hồ Sỹ, Hồ Dư, Hồ Thứ, Hồ Thị Kim Tâm, Hồ Thị Thảo, Hồ Đức Hạnh... đều sớm bộc lộ năng khiếu vơ thuật, người mở ḷ dạy vơ tại nhà, người được chọn vào đội vơ thuật của Bảo tàng Quang Trung. Đặc biệt, ḷ vơ Hồ gia đă cung cấp cho Câu lạc bộ Vơ thuật cổ truyền tỉnh B́nh Định nhiều nhân tài vơ thuật: Hồ Thị Diêu, Hồ Văn Núi, Hồ Văn Tú...
Từ năm 2002 đến nay, các vơ sĩ xuất thân từ ḷ vơ Hồ Sừng (do vơ sư Hồ Cương, Hồ Văn Bé và huấn luyện viên Hồ Sỹ đào tạo) đă liên tiếp giành được nhiều giải thưởng lớn tại các cuộc liên hoan, giải vô địch vơ cổ truyền..
Quăng đời lúc về già, Hồ Ngạnh thường đi đây đi đó, thăm viếng các cảnh chùa, thăm mạch bốc thuốc cứu đời. Ông qua đời vào mùa xuân năm Bính Th́n (1976) tại quê nhà. Hưởng thọ 90 tuổi.
Làng vơ B́nh Định là một nét độc đáo riêng trong truyền thống văn hóa B́nh Định. Trong đó, xă B́nh Thuận, huyện Tây Sơn vốn là một vùng quê khoai sắn, ấy vậy mà nơi đây lại vang danh bởi cái tên Thuận Truyền với lời truyền tụng: "Roi Thuận Truyền - quyền An Vinh..."
Phải ḷ ḍ vào những ngách nhỏ ngoằn ngoèo, vun đầy cát ở làng Ḥa Mỹ, mới t́m được ngôi nhà xưa của vơ sư Hồ Nhu (thường gọi là Hồ Ngạnh). Trước nhà, một mái hiên lợp tôn thông thống bốn phía. Vơ sư Hồ Sừng, cháu nội vơ sư Hồ Nhu, năm nay đă 65 tuổi, cho biết: "Tui mới cất năm ngoái để tập vơ vào mùa mưa, c̣n như mùa hè th́ tận dụng luôn cả hai khoảnh ruộng làm sân tập".
I. Từ huyền thoại làng vơ
Roi Thuận Truyền xa nữa không rơ ông tổ là ai, nhưng vơ sư Hồ Nhu được xem như một sư tổ. Ông sinh năm 1891, cha từng là một vơ quan triều Nguyễn, mẹ người Huế, cũng là con nhà vơ. Chuyện xưa kể, một lần do bị bức hiếp, Hồ Nhu đă đánh trả con trai một ông Hương Kiểm trong làng. Ông Hương Kiểm xách gậy đi t́m, đ̣i đánh ông. Mẹ ông đă giở ngay cán cuốc đánh ngược lên một thế. Vậy là cái gậy trong tay Hương Kiểm bay vù tận ngơ. Từ đó, Hồ Nhu bắt đầu theo mẹ luyện vơ. Nhưng theo vơ sư Hồ Sừng, hồi bé, vơ sư Hồ Nhu chưa được mẹ dạy vơ. Ông phải t́m học ở nhiều ông thầy khác, như học roi của Ba Đề, học nội công của Đội Sẻ, tiếp đến học roi của Hồ Khiêm và theo Quách Tấn - Quách Tạo th́ ông c̣n được một tạo sĩ (đậu tiến sĩ vơ) truyền dạy thêm. Khi đường roi đă cứng cáp v́ kết hợp tinh hoa của nhiều thầy, thấy được, mẹ ông mới tinh truyền thêm. Đường roi càng trở nên thiên biến vạn hóa, sâu hiểm khôn lường.
Khoảng năm 1932, tiếng tăm ông vang dội khắp bốn tỉnh Nam, Ngăi, B́nh, Phú, học tṛ đến thọ giáo rất đông. Quá 80 tuổi, Hồ Nhu vẫn c̣n thao diễn roi, đường roi vẫn cứng và đẹp. Con trai mất sớm, ông truyền nghề cho cháu nội, là vơ sư Hồ Sừng hiện nay. Vơ sư Hồ Sừng kể: "Bao giờ thâu nhận học tṛ, ông cũng thử trước rồi dạy sau. Học tṛ ông có Mười Mỹ, Đinh Văn Tuấn, Năm Tạo, Sáu Được... đều đă có danh có tiếng, trong xă th́ có Lê Thành Viên, thường gọi Ba Hào, và Lê Bá Cừu, tức Sáu Dật. Mà yêu cầu của ông với học tṛ, kể cả con cháu trong nhà cũng vậy, cao lắm".
Năm nay đă 90 tuổi, vơ sư Lê Thành Phiên (làng Đại Chí, xă Tây An) vẫn minh mẫn. Kư ức ông vẫn vẹn nguyên h́nh ảnh người thầy vóc người cao to, dạy học tṛ rất nghiêm: "Thầy dạy ngày ba buổi. Thầy dạy kỹ, nhưng tṛ phải tập cho tinh. Nhờ vậy nên tui học kể ra th́ cũng hổng nhiều, đâu có 18 tháng, nhưng cũng được truyền dạy cơ bản". Lăo vơ sư có vẻ hơi buồn, chẳng là vài năm gần đây, tuổi cao, nên giỗ tổ chẳng thể lên nhà thầy.
II. Đến đường roi bí truyền
Roi là một loại binh khí tiêu biểu của vơ B́nh Định. Roi làm bằng gỗ dẻo, mây già hoặc tre đặc, to nhỏ tùy theo bàn tay người sử dụng lớn, nhỏ. Nhiều vơ đường ở B́nh Định rất giỏi về roi như: Lâm Ngọc Phú, Bửu Thắng (An Nhơn); Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh và phái vơ ở chùa Long Phước (Tuy Phước); Phan Thọ (Tây Sơn)…
Người thầy dạy của vơ sư Hồ Nhu là Hồ Khiêm với đường roi "lạc côn", cũng là một đường roi tuyệt kỹ. Rồi các đường roi như: "đâm so đũa", "roi đánh nghịch", "đá văng roi", "phá vây", "roi chiến"… đều là những bảo vật bí truyền của vơ B́nh Định.
Một bài roi gồm hai phần: lời thiệu và động tác. Lời thiệu thường là thể thơ, ca dao dân gian… Động tác là các đ̣n thế tấn công và pḥng thủ theo các phách cơ bản như: bát, bắt, triệt, chận (nặng về thủ để triệt phá các đ̣n tấn công của đối phương); hoành, khắc, lắc, tém (vừa thủ vừa công). Thủ ở đây không có nghĩa thụ động, mà phải dùng các phách hợp lư để triệt tiêu đ̣n tấn công đối phương rồi ra đ̣n tiêu diệt đối phương. Hay có thể giả vờ trá bại, dụ đối phương vào thế. Có lúc phải dùng trừ công để thủ tức là khi đă trừ được các đ̣n tấn công của đối phương, phải thủ cho kín chặt, không cho đối phương ra đ̣n tấn công tiếp, rồi phán đoán nhanh xem đối phương phản ứng để có đối sách...
Mỗi môn phái ở B́nh Định có các đ̣n roi bí truyền nhưng đường roi Thuận Truyền vang danh nhất. Cái bí truyền của những đường roi đă đi vào những câu chuyện truyền tụng, thật - hư lẫn lộn...
III. Bảo tồn một nét văn hóa
Cả làng Thuận Truyền hiện tại không c̣n ḷ vơ nào. Riêng ở làng Ḥa Mỹ, vốn cùng trong tổng Thuận Truyền xưa, c̣n duy nhất ḷ vơ của vơ sư Hồ Sừng. "Thật ra, tui cũng chẳng c̣n dạy được mấy. Hiện giao cho con trai là Hồ Cương đứng lớp. Riêng những ngày hè học sinh học rất đông, tui phải huy động cả 6 thằng con trai về đứng lớp"- vơ sư Hồ Sừng nói. Truyền thống xưa của một làng vơ vậy là chỉ nương lại ở một ḷ vơ nằm ở nơi ngách sâu nhất của những đường làng.
vơ sư Hồ Sừng
Mời vơ sư Hồ Sừng ra thao diễn bài roi Thái Sơn. Cắp cây roi bên hông, vơ sư nói: "Chú xem th́ thấy khác đấy. Bài roi này so với bài quy định của Sở TDTT, thiệu th́ như nhau nhưng nét đánh vẫn khác. Có người nhận xét là dễ coi hơn, nhưng biết làm sao, người ta đă quy định rồi...".
. Lê Viết Thọ
Tam Thao Tùy H́nh Pháp của vơ sư Hồ Ngạnh
(từ bài của Thầy Thích Hạnh Ḥa)
Bài "Tam Thao Tùy H́nh Pháp" là của VS Hồ Ngạnh người B́nh An sáng
lập ra. Rút từ ba bài của ba vị tướng nước nam, Đinh Bộ Lĩnh, Tô Hiến Thành và
Trần Quốc Toản. VS Hồ Ngạnh đă cố học thấu đáo vă đă chứng được tâm thao. Từ đó
VS Hồ Ngạnh chọn lọc và rút ra mỗi bài của các vị tướng hai câu. Mỗi câu 12 thao,
sáu câu thành bảy hai thế, gọi nôm na bảy hai thế roi của VS Hồ Ngạnh, bao gồm
đầy đủ trận pháp và chiến pháp.
Nguyên văn của bài:
Đông huê môn
thiên thanh nhất điểm
Triệt hồng trần lục đoạn chương quan
Quế lăng tục đoạn hồng sa khúc
Nhất chấn oai quang lữ mộng bài
Tường vân lăm sắc đấu pháp thiên thanh
Nhiếp trận đồ h́nh " tra lư tinh" đằng liễu pháp
Dịch nghĩa:
Cửa Đông khuê trời trong một điểm
Dứt cỏi trần sáu trận giao binh
Quế Lăng đă mất cát hồng bay
Một sát long trời trong giấc mộng
Mây che nắng nhạt loạn đảo vang trời
Vào cửa tinh binh như không người vây trận pháp
Trước tiên, hai cầu đầu là trong bài "Kinh vân động thủy tiên " của Đinh Bộ Lĩnh.
"Đông huê môn thiên thanh nhất điểm
Triệt hồng trần lục đoạn chương quan"
Mùa thu năm Tân Hợi (951) Đinh Bộ Lĩnh rất tinh thông vơ nghệ đă soạn ra nhiều
bài để huấn luyện tướng sĩ. Trong đó có bài "Tra lư tinh thông bộ pháp", "Kinh
vân động thủy tiên" từ đó các bài cứ tiềm ẩn và lưu truyền trong tướng sĩ và
nhân dân nước nam.
Tiếp đến Hồ Ngạnh vận dụng bài của Tô Hiến Thành " Hàn vân câu lĩnh tiên "
"Quế Lăng đă mất cát hồng bay
Một sát long trời trong giấc mộng"
Mùa thu năm Tân Dậu,
Tô hiến Thành nhận thấy quốc gia c̣n nhiều cơn binh lửa. Cho nên sau những buổi
luyện quân và duyệt binh tại thao trường. Ông tỏ ra không thỏa măn , về tới tư
dinh ông cho mời sáu tướng lĩnh tâm phúc có chức trách để truyền lại những kinh
nghiệm thao tác bày binh bố trận, chiêu tập binh mă và một số bí kíp để giảng
dạy cho binh sĩ. Từ đó bắt buộc quan quân ai ai cũng thành thục vơ nghệ, hiểu
biết trận pháp và thao lược của một số bài như :
"Câu la đằng lữ phạm thao" "Hàn vân câu lĩnh tiên" và từ đó lưu
truyền lại cho các triều đại sau này.
Hồ Ngạnh rút hai câu cuối từ " Vệ La Thành Tiên " của Trần Quốc Toản.
"Tường vân lăm sắc đấu pháp thiên thanh
Nhiếp trận đồ h́nh " tra lư tinh" đằng liễu pháp"
Bài này được ghi chép trong pho " Ngọc Ấn tâm kinh thao lược". Ông Hồ Ngạnh đă
học được và rút tỉa hai câu để h́nh thành 72 thế roi tuyệt kỹ .
Bài "Tam Thao Tùy h́nh pháp" của VS Hồ Ngạnh biến chuyển rất dị thường ,
mỗi câu mỗi đoạn có giá trị khác nhau. Về tầm sát phạt th́ có yếu điểm giá trị
chứa đựng trong mỗi câu của bài.
Câu Một : Chuyên trị các đường thương
Câu Hai : Chuyên phá các đường đao kiếm
Câu Ba : Đánh dụ địch vào thế hiểm
Câu Bốn : Đánh nơi cần đánh gấp
Câu Năm và Sáu : Chuyên đánh ra vào nơi loạn quân.